Blog

  • Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu – Danh nhân văn hóa thế giới

    Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu – Danh nhân văn hóa thế giới

    Người ta biết tới Nguyễn Đình Chiểu không chỉ là tài năng thơ văn mà còn là một nhà giáo, một thầy thuốc được người người ngưỡng mộ. Các tác phẩm thơ Nôm của ông là những di sản còn mãi với thời gian, là bài học cho các thế hệ trẻ Việt Nam. 

    Tìm hiểu tiểu sử tác giả Nguyễn Đình Chiểu

    Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888) là một nhà thơ lớn tại vùng đất Nam Kỳ vào khoảng cuối thế kỷ XIX.

    Ông xuất thân trong gia đình nhà nho có cha là Nguyễn Đình Huy, là người làng Bồ Điền, xã Phong An, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Nơi đây, ông cưới vợ và sinh được 2 con một trai một gái.

    Tìm hiểu tiểu sử tác giả Nguyễn Đình Chiểu
    Tìm hiểu tiểu sử tác giả Nguyễn Đình Chiểu

    Tới mùa thu năm 1820, Nguyễn Đình Huy theo Tả quân để làm thư lại ở Văn hàn ty thuộc dinh Tổng trấn. Tại làng Tân Thới, tỉnh Gia Định, ông Huy cưới thêm vợ thứ và sinh ra 7 người con (4 trai, 3 gái), trong đó, Nguyễn Đình Chiểu là con trai đầu lòng.

    Từ nhỏ, ông đã được mẹ nuôi dạy kỹ lưỡng, lại là con đầu lòng nên càng được quan tâm chăm sóc cẩn thận. Tới năm 6 tuổi, ông được theo học với một thầy đồ trong làng.

    Năm 1883, trong cuộc nổi dậy ở Gia Định, cha ông bị cách chức do bỏ trốn ra Huế. Nhưng vì lòng thương vợ, thương con, ông lại trở vào Nam Kỳ, đem con ra gửi một người bạn ở Huế đang làm Thái phó để được tiếp tục việc học đang còn dang dở.

    Nguyễn Đình Chiểu sống và học tập ở Huế từ năm 11 tuổi tới năm 18 tuổi, sau đó, trở lại Gia Định cùng với gia đình.

    Năm 1943, ở trường thi Gia Định, ông thi đỗ tú tài, khi ấy ông mới chỉ 21 tuổi. Năm 1846, ông cùng em trai và Nguyễn Đình Tựu (10 tuổi) ra Huế học để chờ khoa thi năm 1849.

    Năm 1847, mẹ ông mất ở Gia Định. Hay tin, ông đã bỏ thi, tức tốc cùng em trai trở về Nam để chịu tang mẹ. Trên đường trở về, vì thời tiết khắc nghiệt cùng nỗi tiếc thương mẹ mà ông sinh bệnh, phải nghỉ ngơi ở một nhà thầy thuốc có dòng dõi Ngự y trong cung. Trong thời gian này ông cũng học được không ít những kiến thức trong nghề thuốc.

    Thời gian sau đó, bao nhiêu giông tố đều ập tới: ông lâm cảnh mù lòa, vị hôn thê bội ước, hoàn cảnh gia đình sa sút,… Chịu tang mẹ 3 năm, tới năm 1851, ông mở trường dạy học và làm thuốc ở quê nhà. Đây cũng thời điểm ông bắt đầu viết truyện thơ Lục Vân Tiên.

    Năm 1854, Nguyễn Đình Chiểu cưới vợ là bà Lê Thị Điền – học trò của ông, vì cảm phục và mến thương nên đã xin gia đình tác hợp thành hôn. Nhân câu chuyện này của mình và vợ, ông cũng bắt đầu sáng tác truyện thơ Dương Từ – Hà Mậu.

    Từ năm 1858 tới năm 1883 là thời điểm quân pháp nổ súng vào Đà Nẵng với nhiều nổi dậy, mất mát, hy sinh, gia đình ly tán. Nguyễn Đình Chiểu vẫn tiếp tục sự nghiệp dạy học, làm thuốc và sáng tác thơ văn với nhiều tác phẩm để đời như: Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Từ biệt cố nhân,….

    Tới năm 1886, vợ mất, đất nước cơ hàn khiến cho bệnh tình Nguyễn Đình Chiểu càng thêm trầm trọng. Sau 2 năm, ông qua đời tại Ba Tri, hưởng thọ 66 tuổi, ông được an táng ngay cạnh mộ vợ tại Bến Tre. Cánh đồng An Đức rợp trắng khăn tang của những người thân, học trò và tất cả những người mến mộ.

    Phong cách sáng tác thơ văn của Cụ Nguyễn Đình Chiểu

    Từ nhỏ, sống trong gia đình gia giáo, học thức, các tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu mang nặng lý tưởng đạo đức nhân nghĩa, đạo lý làm người nhưng vẫn đậm đà tính truyền thống dân tộc và tính nhân dân.

    Phong cách sáng tác thơ văn của Cụ Nguyễn Đình Chiểu
    Phong cách sáng tác thơ văn của Cụ Nguyễn Đình Chiểu

    Quan điểm sáng tác của ông là văn chương chiến đấu, vị nhân sinh, tràn đầy tinh thần nhân ái và tinh thần tiến công.

    Các sáng tác của ông chịu hưởng lớn bởi yếu tố thời đại (thời kỳ chống Pháp), tạo dựng hình ảnh những con người ngay thẳng, thủy chung, nhân hậu, dám đấu tranh với các thế lực bạo tàn.

    Ông chính là một trong những nhà thơ đóng góp lớn vào nền thơ văn nước nhà thời kháng chiến chống Pháp. Các tác phẩm của ông ghi chép chân thực lại một thời đại khó khăn của dân tộc, những nỗi đau do chiến tranh để lại. Đồng thời, các tác phẩm cũng tố cáo tội ác của kẻ thù, củng cố thêm sức mạnh tinh thần cho dân tộc.

    Không trau chuốt, cầu kỳ nhưng những tác phẩm của ông lại được rất nhiều độc giả đón nhận bởi nội dung hướng tới nhân dân, đất nước, hướng tới sự nghiệp đấu tranh của toàn nhân tộc.

    Những tác phẩm nổi tiếng của tác giả Nguyễn Đình Chiểu

    Những tác phẩm nổi tiếng của tác giả Nguyễn Đình Chiểu
    Những tác phẩm nổi tiếng của tác giả Nguyễn Đình Chiểu

    Các tác phẩm thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu mang đậm bút pháp trữ tình, đậm đà sắc thái Nam Bộ quê hương, tràn trề hơi thở cuộc sống:

    • Lục Vân Tiên (1851) gồm 2082 câu thơ lục bát. Đây chính là tác phẩm làm lên tên tuổi của Nguyễn Đình Chiểu, là tác phẩm lớn của nền văn học Việt Nam. Ban đầu, Lục Vân Tiên chỉ phổ biến theo lối truyền miệng nhưng sau đó truyện thơ được Trần Quang Quang khắc in lần đầu ở Trung Quốc trước năm 1864. Tác phẩm ca ngợi chính nghĩa và những đạo đức đáng quý ở đời.
    • Dương Từ – Hà Mậu (1854) gồm 3456 câu thơ lục bát có xen lẫn thơ Đường và một số thể loại khác. Tác phẩm là suy nghĩ, thái độ không tán thành của Nguyễn Đình Chiểu đối với đạo Phật và Công giáo.
    • Ngư Tiều vấn đáp nho y diễn ca (1867) gồm 3642 câu thơ lục bát có xen lẫn 21 bài thơ và một số bài phú, thơ ca,… là cuốn sách dạy nghề thuốc chữa bệnh. Trong tác phẩm này, tác giả vẫn không quên lồng ghép tư tưởng yêu nước.

    Ngoài 3 tác phẩm trên thì Nguyễn Đình Chiểu còn để lại 37 thơ và văn tế nổi tiếng như: Chạy giặc, Từ biệt cố Nhân, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Thảo thử hịch, Ngóng gió đông, Thà đui,…

    Vinh danh Cụ Nguyễn Đình Chiểu

    Năm 1965, để dành tặng cho các tác giả, tác phẩm nổi bật trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật ở miền Nam, Hội Văn nghệ Giải phóng Miền Nam đã lập ra giải thưởng mang tên Nguyễn Đình Chiểu – Giải thưởng Nguyễn Đình Chiểu.

    Vinh danh Cụ Nguyễn Đình Chiểu
    Vinh danh Cụ Nguyễn Đình Chiểu

    Năm 2021, Nguyễn Đình Chiểu được UNESCO cùng Việt Nam tôn vinh và kỷ niệm năm sinh, năm mất – Danh nhân văn hóa thế giới. Không chỉ tài năng trong lĩnh vực thơ văn mà ông còn là một thầy giáo, thầy thuốc được người người kính trọng, là tấm gương “hoa trong nghịch cảnh”.

    Tại buổi lễ có sự góp mặt Chủ tịch nước cùng các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam tham gia.

    Đây không những là vinh dự to lớn của tỉnh Bến Tre (nơi cụ Chiểu đã sống trong những năm tháng cuối đời) mà còn là sự tự hào của toàn dân tộc Việt Nam.

    Hy vọng những tư liệu chia sẻ về cụ đồ Nguyễn Đình Chiểu của Nhà văn TP.HCM đã giúp bạn đọc có thêm những thông tin hữu ích phục vụ cho việc học tập hàng ngày. Chúc bạn có những giờ học hiệu quả. 

  • Ý nghĩa của cuộc Duy Tân Minh Trị năm 1868 tại Nhật Bản

    Ý nghĩa của cuộc Duy Tân Minh Trị năm 1868 tại Nhật Bản

    Cuộc Duy Tân Minh Trị là một cuộc cải cách lớn tại đất nước Nhật Bản vào thời điểm giữa thế kỷ XIX mang lại rất nhiều những tác động tích cực đối với xã hội trong nước và các nước Châu Á trong thời điểm lúc bấy giờ. Ý nghĩa của cuộc Duy Tân như thế nào, mời bạn đón đọc!

    Hoàn cảnh diễn ra cuộc Duy Tân Minh Trị

    Giữa thế kỷ XIX, trước sự xâm nhập của thực dân Châu Âu, chế độ phong kiến của Nhật Bản bế tắc về mọi mặt, khủng hoảng diễn ra trong khắp các lĩnh vực của quốc gia này, từ kinh tế tài chính tới xã hội, chính trị. Dường như lúc này, Nhật Bản không còn năng lực để chống lại sự đàn áp của thực dân!

    Theo số liệu thống kê, từ năm 1790 – 1840, nông nghiệp Nhật Bản đã có tới 22 lần mất mùa, khủng hoảng lương thực vô cùng trầm trọng, gây ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống của người dân.

    Sự phát triển của công thương hiệp phát sinh ra các giai cấp mới như: thương nhân Open, thương nhân ở Osaka, Daimyo Tây Nam kinh doanh liên tục với quốc tế.

    Hoàn cảnh diễn ra cuộc Duy Tân Minh Trị
    Hoàn cảnh diễn ra cuộc Duy Tân Minh Trị

    Trong xã hội cũng phát sinh thêm những mâu thuẫn giai cấp giữa ShoGun và Daimyo địa chủ miền Bắc. Nông dân chiếm tới 80% tổng dân số nhưng lại là tầng lớp thấp kém, bị chèn ép bởi các tầng lớp địa chủ nên đời sống khó khăn, mâu thuẫn xã hội bị đẩy lên cao trào.

    Đó chính là những biểu hiện cho thấy chế độ phong kiến của Nhật Bản đã lỗi thời, suy yếu, đã đến lúc cần thay đổi bằng một cú nhảy đột phá để phát triển hoặc sẽ mãi chìm trong nô lệ của phương Tây.

    Cuộc cải cách diễn ra ở khắp các lĩnh vực của đời sống, bao gồm:

    • Kinh tế: Xóa bỏ đặc quyền ruộng đất, thống nhất tiền tệ, khuyến khích quyền tự do buôn bán, xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa ở nông thôn, lợi dụng có hải cảng lớn để phát triển thương nghiệp. Từ đó, giúp phát triển kinh tế quốc gia, giảm thiểu tình trạng nghèo đói do mất mùa.
    • Xã hội: Duy trì chế độ đẳng cấp với quyền binh. Tuy nhiên, nông dân vẫn bị áp bức một cổ hai tròng là quý tộc và các thương nhân, mâu thuẫn giai cấp vẫn chưa được xóa bỏ hoàn toàn.
    • Chính trị: Đưa quý tộc và giai cấp tư sản lên nắm chính quyền. Xóa bỏ chế độ nông nô và quyền lực của đại danh. Đồng thời, ban hành hiến pháp về quyền bình đẳng giữa con người với con người. .
    • Đối ngoại: Chấp thuận mở hai cửa biển Shimoda và Hakodate cho tàu thuyền nước Mỹ vào buôn bán.
    • Quân sự: Huấn luyện quân đội theo kiểu phương Tây, thay vì duy trì chế độ trưng binh thì thiết lập chế độ nghĩa vụ quân sự để người dân phải tham gia quân đội là một trách nhiệm, nghĩa vụ của bản thân chứ không phải bị ép buộc. Đồng thời, phát triển ngành công nghiệp đóng tàu chiến, sản xuất vũ khí, đạn dược để phục vụ quân đội, nâng cao sức mạnh phòng bị.
    • Giáo dục: Ban hành chính sách giáo dục bắt buộc, chú trọng khoa học – kỹ thuật trong chương trình giảng dạy, cử học sinh giỏi tới phương Tây để học tập.

    Tuy nhiên, cuộc cải cách này là không triệt để bởi nó chỉ giải quyết được một phần khó khăn của người dân, người lao động lương chỉ đủ tiền cơm gạo, giai cấp công nhân vẫn bị bóc lột nghiêm trọng dẫn đến sự đấu tranh của giai cấp công nhân. Đồng thời, sau khi phát triển, Nhật Bản lại đi theo con đường chủ nghĩa đế quốc để chiếm lại các nước yếu kém hơn mình như Triều Tiên, Trung Quốc, Đài Loan.

    Ý nghĩa của cuộc Duy Tân Minh Trị

    Ý nghĩa của cuộc Duy Tân Minh Trị
    Ý nghĩa của cuộc Duy Tân Minh Trị

    Trong lúc đất nước Nhật Bản bị Mạc phủ làm cho suy yếu, nguy cơ bị đô hộ bởi các nước phương Tây, bị ép buộc ký kết các hiệp ước không có lợi, bất công.

    Nhận thấy tình trạng này, Nhật Bản đã có thể giữ được độc lập và chủ quyền dân tộc, phát triển kinh tế, giáo dục quốc gia, các lĩnh vực khác cũng được cải thiện mở đường cho sự phát triển đi lên của chủ nghĩa tư bản – chủ nghĩa đưa Nhật Bản trở thành cường quốc về sau này.

    Không chỉ có những tác động tích cực trong nội bộ quốc gia Nhật Bản mà cuộc Duy Tân Minh Trị còn có sự lan tỏa nhất định đối với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở một số nước Châu Á, hình thành con đường cứu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản.

    Tính chất của cuộc Duy Tân Minh Trị

    Tính chất của cuộc Duy Tân Minh Trị chính là một cuộc cách mạng tư sản không triệt để, hành trình quá độ từ phong kiến sang chủ nghĩa tư bản của đất nước Nhật Bản.

    Đồng thời, cuộc cải cách này cũng mở đường cho chủ nghĩa tư bản tăng trưởng trong hoàn cảnh đặc biệt.

    Đây là cuộc cách mạng nhằm mục đích đưa Nhật Bản tiến lên con đường phát triển mới, là bàn đạp cho Nhật thoát khỏi sự nô lệ của phương Tây.

    Tính chất của cuộc Duy Tân Minh Trị
    Tính chất của cuộc Duy Tân Minh Trị

    Sau cuộc cải cách Duy Tân Minh Trị, bộ mặt của đất nước Nhật Bản đã thay đổi rất nhiều, trong đó:

    • Chế độ độc quyền ruộng đất đã được xóa bỏ, người dân có quyền tư hữu ruộng đất, phát triển nông nghiệp.
    • Giúp đất nước thoát khỏi sự đô hộ của các nước phương Tây.
    • Đời sống nhân dân cũng từ đó mà được ổn định, giảm tình trạng mâu thuẫn trong xã hội, giảm đói nghèo.
    • Nhật Bản quá độ từ phong kiến lên chủ nghĩa tư bản – sự phát triển tất yếu để các quốc gia có thể đi lên.

    Qua đây, chúng ta có thể thấy rõ, cuộc cải cách Duy Tân Minh Trị là một cuộc cải cách thành công giúp Nhật Bản vươn lên trở thành nước tư bản công nghiệp, thoát khỏi cảnh trở thành thuộc địa của phương Tây. Đây cũng chính là quốc gia Châu Á đầu tiên thoát khỏi ảnh hưởng của đế quốc phương Tây, tạo động lực và mở con đường cứu nước cho các quốc gia Châu Á khác, trong đó có Việt Nam.

    Hy vọng những thông tin chia sẻ về ý nghĩa của cuộc Duy Tân Minh Trị đã giúp bạn tìm kiếm được kiến thức hữu ích cho việc học tập của mình. Trong thời gian tới, nhavantphcm.com.vn sẽ cố gắng tạo ra nhiều nội dung ý nghĩa hơn gửi đến tất cả bạn đọc. Chúc bạn học tập tốt!

  • Bình Tây Đại Nguyên Soái là ai? Điều ít ai biết về Bình Tây Đại Nguyên Soái

    Bình Tây Đại Nguyên Soái là ai? Điều ít ai biết về Bình Tây Đại Nguyên Soái

    Bình Tây Đại Nguyên Soái chính là người anh hùng dân tộc Trương Định. Với những đóng góp to lớn trong công cuộc chống thực dân Pháp bảo vệ đất nước, ông đã được nhân dân và đất nước ghi nhận, tưởng nhớ thông qua việc dựng tượng, lập đền thờ hay sử dụng tên Trương Định để đặt cho các con phố ở TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Tiền Giang.

    Để tìm hiểu chi tiết về Bình Tây Đại Nguyên Soái, cuộc khởi nghĩa mang đậm dấu ấn của ông cùng những điều ít người biết về Bình Tây Đại Nguyên Soái – Trương Định, mời bạn hãy cùng chúng tôi theo dõi ngay bài viết dưới đây nhé!

    Tìm hiểu Bình Tây Đại Nguyên Soái là ai?

    Bình Tây Đại Nguyên Soái là Trương Định (1820-1864), hay còn được gọi là Trương Công Định hoặc Trương Đăng Định. Ông là một vị tướng quân của nhà Nguyễn, sinh ra và lớn lên ở phủ Bình Sơn, Quảng Ngãi (Nay là xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi).

    Bình Tây Đại Nguyên Soái hay Trương Định sống ở quê hương miền Trung đầy nắng và gió cho đến năm 24 tuổi thì theo cha là Trương Cầm (Hữu Thủy vệ đời vua Thiệu Trị) đi vào miền Nam rồi kết hôn với con gái của một hào phú ở huyện Tân Hòa (Nay là Gò Công Đông).

    Tìm hiểu Bình Tây Đại Nguyên Soái là ai?
    Tìm hiểu Bình Tây Đại Nguyên Soái là ai?

    Sau khi cha của Trương Định mất, ông đã ở lại quê vợ sinh sống. Năm 1854, để hưởng ứng chính sách khẩn hoang của triều đình Huế do Nguyễn Tri Phương thi hành, ông đã đem hết tài sản của mình đi để chiêu mộ khoảng 500 dân nghèo ở vùng Quảng Nam, Quảng Ngãi đi khai hoang, lập đồn điền ở Gia Thuận. Với công lao đó, Trương Định đã được triều đình Huế phong chức Quản cơ đồn điền.

    Ngay khi thực dân Pháp bắt đầu xâm lược nước ta, Trương Định đã mang trong mình tư tưởng kháng Pháp, do đó ông đã được tập hợp một lực lượng và xây dựng các chiến lược để chống lại quân Pháp, đồng thời tiến hành nhiều hoạt động để xây dựng nguồn lực lâu dài. Cũng trong khoảng thời gian này, ông đã lấy người vợ hai là bà Trần Thị Sanh, là chính là chị em con cô con cậu với Từ Dũ Thái Hậu.

    Tuy sinh ra và lớn lên ở Quảng Ngãi, nhưng tên tuổi cũng như công lao của ông lại được ghi dấu ở Gia Định. Tại nơi đây, Bình Tây Đại Nguyên Soái đã không tiếc công sức của mình để đứng lên chiến đấu chống lại phương Tây bằng cả sức mạnh và trái tim.

    Sau khi ông qua đời vào ngày 20/8/1864 trong cuộc kháng chống Pháp, ông đã được vua Tự Đức truy tặng phẩm hàm và lập đền thờ tại quê nhà. Lăng mộ của Trương Định đã được người vợ thứ hai của ông dựng tại Gò Công – Tiền Giang.

    Bên cạnh đó, để tưởng nhớ công lao và đóng góp của Bình Tây Đại Nguyên Soái Trương Định, nhân dân đã lập đền dựng tượng ông tại huyện Gò Công Đông. Ngày 19-20 tháng 8 âm lịch hằng năm cũng là ngày tưởng niệm của ông.

    Hiện nay, cái tên Trương Định đã được sử dụng để đặt tên cho nhiều con phố ở TP. Hồ Chính Minh, Hà Nội hay Tiền Giang, như một cách để con cháu đời sau mãi mãi ghi nhớ công ơn to lớn của ông trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

    Cuộc khởi nghĩa của Bình Tây Đại Nguyên Soái

    Để hưởng ứng phong trào chống Pháp cứu nước của dân tộc, đã có rất nhiều anh hùng đứng lên phất cờ khởi nghĩa. Trong số đó, phải nhắc đến Bình Tây Đại Nguyên Soái với cuộc khởi nghĩa Trương Định (1859-1964), có quy mô lớn nhất và gây tổn thất nặng nề nhất cho thực dân Pháp.

    Cuộc khởi nghĩa của Bình Tây Đại Nguyên Soái
    Cuộc khởi nghĩa của Bình Tây Đại Nguyên Soái
    • Tháng 12/1859: Quân Pháp tấn công vào thành Gia Định. Khi này, Bình Tây Đại Nguyên Soái đã sử dụng sức mạnh quân đội triều đình để chống lại kẻ thù và lập nhiều chiến công. Đặc biệt nhất là trận phục kích tiêu diệt Đại úy Barbe.
    • Tháng 12/1861: Sau khi đồn Chí Hòa bị thất thủ, Trương Định đã cho quân đến đồn cũ Tân Hòa và chiêu mộ thêm nhiều binh lính để tiếp tục chống Pháp. Vào thời điểm này, quân số do Trương Định nắm giữ đã lên đến 6000 người. Đội quân nổi dậy Trương Định đã lập được nhiều chiến công và trừng phạt nhiều tay sai theo giặc Pháp, đồng thời tấn công các đồn bốt của địch ở Gia Thạch, Kỳ Hòa, Rạch Gầm.
    • Tháng 3/1862: Quân khởi nghĩa của Trương Định đã tấn công, tiêu diệt nhiều tên địch và chiếm lại được Gò Công.
    • 5/6/1862: Triều đình ký Hòa ước Nhâm Tuất, 3 tỉnh miền Đông bị giao cho Pháp và lệnh cho Trương Định hủy nghĩa quân, đến An Giang để nhận chức sứ quân. Theo yêu cầu của nhân dân và các nghĩa sĩ, Trương Định đã từ chối lệnh của triều đình và tiếp tục lãnh đạo cuộc đấu tranh chống Pháp dưới danh nghĩa Bình Tây Đại Nguyên Soái mà nhân dân ban tặng.
    • Sau đó, Trương Định đã lãnh đạo đội quân nổi dậy và giành chiến thắng ở nhiều cuộc tấn công, phục kích thành công Alarmer, giết đại úy Tu-rut (1862), phá vỡ nhiều cuộc tấn công lớn của giặc Pháp (Tháng 1/1863).
    • 16/2/1863: Tướng giặc Bonnard đã xuống núi và tiến hành khảo sát Gò Công. Ông tuyên bố rằng, nếu ai lấy được đầu của Trương Định sẽ thưởng 10.000 francs.
    • 26/2/1863: Quân của Pháp tiến vào Trại Cá. Khi này, Trương Định đã hiểu được ý đồ của địch, tiến hành bố trí mai phục và điều toàn bộ quân về Quy Nhơn,
    • 25/9/1863: Quân của Pháp tấn công vào Quy Nhơn sau khi nhận được mật báo. Nghĩa quân của Trương Định cũng đã may mắn thoát ra khỏi vòng vây và trở về Gò Công.
    • 20/8/1864: Bình Tây Đại Nguyên Soái – Trương Định bị thương nặng trong một cuộc chiến không cân sức. Để không rơi vào tay kẻ thù, Trương Định đã tự sát bằng kiếm nhằm bảo toàn danh tiếng anh hùng của mình và ông đã rời xa trần thế ở tuổi 44.

    Để ghi nhận công lao và sự đóng góp của ông với tổ quốc, năm 1871, vua Tự Đức đã lập đền thờ Trương Định tại Tư Cung – Quảng Ngãi. Bên cạnh đó, Nguyễn Đình Chiểu cũng đã viết một bài văn tế với hai bài thơ điếu Trương Định để ngợi ca về cuộc sống chiến đấu anh dũng và cái chết đáng trân trọng của ông.

    Bình Tây Đại Nguyên Soái và những điều ít ai biết đến

    Những điều ít người biết về Bình Tây Đại Nguyên Soái có thể kể đến mối lương duyên với Gò Công, hay việc ông từ chối sự ưu ái của triều đình để đấu tranh cùng nhân dân, chiến đấu cho miền Nam ruột thịt,…

    Bình Tây Đại Nguyên Soái và những điều ít ai biết đến
    Bình Tây Đại Nguyên Soái và những điều ít ai biết đến

    Mối duyên nợ với mảnh đất Gò Công

    Người dân ở Gò Công, ngày ấy là không ai không biết tới Bình Tây Đại Nguyên Soái, ông nổi tiếng ở Gia Định với việc lấy hết tài sản và của cải để đi đánh bài tây. Sau đó còn kết hôn với người phụ nữ.

    Đến năm 1854, ông cũng đã bỏ tiền của mình ra đi chiêu mộ binh lính và ngựa để khai khẩn đất hoang. Rồi lập đồn điền Gia Thuận, phát triển sản xuất cũng như quan tâm đến đời sống của người dân địa phương nơi đây.

    Từ chối sự ưu ái của triều đình để đấu tranh cùng nhân dân

    Vào tháng 7/1862, sau khi ký hiệp ước, thực dân Pháp đã đã chia đảo Côn Lôn và 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ bao gồm: Biên Hòa, Gia Định, Định Tường. Sau đó, triều đình Tự Đức đã bổ nhiệm Trương Định lên làm Lãnh binh tỉnh An Giang để loại bỏ các lực lượng chống Pháp, đồng thời ra lệnh cho ông dừng lại các cuộc bao vây.

    Tuy nhiên, trước yêu cầu và nguyện vọng của nhân dân, Trương Định đã quyết tâm đứng về lợi ích của người dân, cùng họ đứng lên chiến đấu chống thực dân Pháp. Mặc dù lực lượng tham gia chiến đấu còn hạn chế, thế nhưng đội quân khởi nghĩa của Bình Tây Đại Nguyên Soái vẫn thu về được nhiều chiến công rực rỡ.

    Giây phút hy sinh lúc cuối đời

    Trong tài liệu được Pháp ghi lại, Trương Định mất là do vết đạn bắn vào lưng. Trong lịch sử ghi chép của Việt Nam thì chỉ ghi ngày mất. Thế nhưng, vì nhân dân không muốn tin rằng người anh hùng của dân tộc đã chết trong một trận chiến nên đã dựng lại tư thế lẫm liệt, oai phong của ông trước khi mất.

    Theo dân gian, sau khi Trương Định bị thương nặng, biết mình không thể qua khỏi, ông đã tự đâm kiếm vào bụng và tự sát.

    Trên đây là những thông tin chi tiết về cuộc đời và cuộc khởi nghĩa của Bình Tây Đại Nguyên Soái – Trương Định. Hy vọng, bài viết đã cung cấp cho bạn đọc những kiến thức quan trọng, cần thiết để phục vụ cho việc tìm hiểu và học tập.

  • Tự phụ là gì? Tìm hiểu về biểu hiện, nguyên nhân và tác hại của tự phụ

    Tự phụ là gì? Tìm hiểu về biểu hiện, nguyên nhân và tác hại của tự phụ

    Nếu như tự tin giúp con người dễ dàng đạt được thành công trong cuộc sống thì tự phụ lại là một kiểu tính cách khá xấu trong cuộc sống ngày nay. Bởi tự phụ chính là thái độ kiêu căng, tự đắc và luôn cho mình là người giỏi nhất trước mọi vấn đến hay trong một cuộc tranh luận nào đó. Để tìm hiểu chi tiết về tính cách tự phụ cũng như những biểu hiện, nguyên nhân và tác hại của nó, mời bạn hãy đọc ngay bài viết dưới đây nhé

    Tự phụ là gì?

    Tự phụ là một tính từ để chỉ tính cách kiêu căng, ngạo nghễ và luôn xem bản thân mình là nhất. Những người có tính tự phụ thường có xu hướng đánh giá cao năng lực của mình và xem thường những người xung quanh. Bên cạnh đó, đây cũng là những con người tự cho mình cái quyền không cần phải tuân theo các quy định, chuẩn mực đã được đề ra trong gia đình, tổ chức hoặc một cộng đồng nào đó.

    Tự phụ là gì?
    Tự phụ là gì?

    Người tự phụ cũng thường hay vỗ ngực và tự cho mình là giỏi nhất, họ thường bảo thủ và cho rằng ý kiến của mình là đúng, rồi bắt người khác phải thực hiện theo. Hiểu theo một cách khác, tự phụ cũng chính là thái độ tự cao, tự đại quá mức, từ đó làm suy mờ ý chí cũng như suy nghĩ và phân tích của người khác.

    Những biểu hiện của tự phụ

    Những biểu hiện của tự phụ
    Những biểu hiện của tự phụ

    Người có tính cách tự phụ, thường có những biểu hiện cụ thể dưới đây:

    • Luôn tự đề cao bản thân, cho rằng mình đúng và tài giỏi hơn người. Đặc biệt, khi làm được một điều gì đó thì sẽ có thái độ coi thường mọi người, nghĩ rằng chỉ có mình mới có thể làm được.
    • Thường xuyên đổ lỗi cho người khác khi gặp phải một biến cố hay vấn đề nào đó trong cuộc sống.
    • Thái độ nói chuyện huênh hoang, vênh váo và tự đắc khi trò chuyện với người khác.
    • Hay khoe khoang thành tích của bản thân, thậm chí là phóng đại và thổi phồng lên những điều không đúng sự thật.
    • Trong những tranh luận hằng ngày, người tự phụ thường rất hay cãi ngang, luôn nghĩ rằng ý kiến của mình là đúng là nhất, và không bao giờ lắng nghe ý kiến của người xung quanh.

    Nếu như tự tin dẫn lối ta đến thành công thì tự phụ có thể sẽ khiến cho con người ta dễ gặp thất bại. Như đã nói ở trên, người tự phụ thường có thái độ tự cao, tự đại và cho mình là giỏi nhất nên sẽ có tư duy không mở rộng thêm kiến thức hay tích lũy thêm kinh nghiệm. Vì vậy, người tự phụ dễ gặp phải thất bại trong cuộc sống là một điều vô cùng dễ hiểu.

    Trong cuộc sống, có vô vàn người giỏi xung quanh ta, nếu không tích cực học hỏi, nâng cấp kiến thức và nâng cấp bản thân, đến một ngày nào đó chính những người tự phụ sẽ bị bỏ lại phía sau.

    Hơn nữa, người có tính cách tự phụ cũng thường là những người không được mọi người xung quanh yêu mến hoặc tỏ rõ thái độ khó chịu, do đó, người tự phụ hay sống trong sự đơn độc, lẻ loi.

    Tính cách tự phụ phần nào đã và đang tác động khá tiêu cực đến cuộc sống của mỗi người chúng ta, nếu không tiếp thu và chịu khó thay đổi, bản tính tự phụ sẽ rất khó để có thể hòa nhập trong một tập thể.

    Nguyên nhân dẫn tới tính tự phụ

    Nguyên nhân dẫn tới tính tự phụ
    Nguyên nhân dẫn tới tính tự phụ

    Thực tế, hiện nay có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tính tự phụ, trong đó phải kể đến những lý do chính sau đây:

    • Cái tôi cá nhân quá cao, mắc bệnh ngôi sao và cho rằng mình là cái rốn của vũ trụ.
    • Mặt khác do bản tính thiếu khiêm tốn và không có ý chí cầu tiến, học hỏi từ những người xung quanh.
    • Quen với việc được một số người xung quanh nịnh nọt, tâng bốc. Bên cạnh đó, các yếu tố xã hội như danh vọng ảo, bằng cấp giả đã khiến cho những con người ấy nghĩ rằng mình thực sự tài giỏi.

    Bởi vậy, để hạn chế những nguyên nhân dẫn đến tính tự phụ, mỗi chúng ta nên hiểu rõ những ưu – nhược điểm của bản thân, từ đó phải biết hòa mình vào chung một tập thể để làm việc và học tập cùng mọi người, thông qua đó giúp xây dựng một xã hội ngày càng phát triển và tiến bộ.

    Những tác hại liên quan tới tính tự phụ

    Những tác hại liên quan tới tính tự phụ
    Những tác hại liên quan tới tính tự phụ

    Tự phụ có thể coi là một tính cách khá tiêu cực trong xã hội ngày nay, nếu không chịu khó nhìn nhận và sửa đổi sẽ dẫn đến một số tác hại như:

    • Nó khiến con người ta quá ảo tưởng về bản thân mình. Chẳng hạn như, năng khiếu hay tài năng chỉ có một chút nhưng lại luôn nghĩ mình là người giỏi nhất, mình là thiên tài. Từ đó, có thái độ huênh hoang, coi trời bằng vùng một cách đáng ghét.
    • Cách sống của người tự phụ đôi khi sẽ khiến cho những người xung quanh không muốn làm thân, thay vào đó là sự xa lánh, ghét bỏ. Dần dần, người tự phụ sẽ trở nên cô đơn trong chính cuộc sống của họ, dẫn đến ảnh hưởng lớn trong cả công việc và học tập. Hơn nữa, người tự phụ cũng sẽ rất khó để có thể kết bạn, bởi cái tôi cá nhân quá cao khiến cho họ không thể tìm được sự đồng điệu với nhau.
    • Người tự phụ, vì thường cho mình là người giỏi giang nên hay có xu hướng không chịu lắng nghe, học hỏi và cập nhật cái mới nên rất dễ bị lạc hậu và tụt lùi so với sự phát triển của thời đại.
    • Người tự phụ cũng thường hay có thói khoe khoang thành tựu, của cải vật chất, thậm chí là “bé xé ra to”, thổi phồng và bịa đặt những thứ mình không hề có chỉ để thỏa mãn bản tính của con người. Vì thế, người tự phụ thường bị đánh giá là kẻ khoác lác, khó có thể thành công trong cuộc sống.
    • Tính cách tự phụ cũng chính là yếu tố làm cản trở sự phát triển con người họ, những người tự cao, tự đại sẽ rất dễ hình thành nên một bức tường ngăn cách với thế giới bên ngoài.

    Như vậy, bạn có thể thấy, tự phụ là một tính cách khá tiêu cực trong cuộc sống ngày nay. Và nếu một trong số những người trong chúng ta đang mắc phải bản tính này, hãy tích cực thay đổi để cuộc sống và các mối quan hệ xung quanh được trở nên tốt đẹp hơn nhé!

  • Văn học hiện thực phê phán: Khái niệm, hoàn cảnh ra đời và trào lưu văn học VN giai đoạn 1930 – 194

    Văn học hiện thực phê phán: Khái niệm, hoàn cảnh ra đời và trào lưu văn học VN giai đoạn 1930 – 194

    Vào những năm đầu của thế kỷ XX, dưới ách thống trị của thực dân Pháp, phát xít Nhật, sự bóc lột của cường hào địa chủ gây ra nỗi khổ tột cùng cho nhân dân. Cảnh bất công ngang trái, đày đọa tới tận xương tủy, hiện thực cuộc sống tối tăm không lối thoát,… Đây cũng chính là bối cảnh của sự phát triển trào lưu văn học hiện thực phê phán tại Việt Nam. 

    Khái niệm về văn học hiện thực phê phán

    Văn học hiện thực phê phán là một trào lưu văn học với các tác phẩm có mối quan hệ mật thiết với hiện thực đời sống có nội dung chặt chẽ, sắc sảo.

    Khái niệm về văn học hiện thực phê phán
    Khái niệm về văn học hiện thực phê phán

    Nếu muốn thực hiện thành công văn học hiện thực phê phán thì nhà văn cần phải tuân thủ theo đúng những yếu tố về mỹ học nhất định như:

    • Điển hình hóa hình tượng nhân vật và những sự kiện trong cuộc sống.
    • Thừa nhận mối quan hệ giữa tính cách, hành động, thái độ của nhân vật trong truyện với hoàn cảnh môi trường sống.
    • Coi trọng những chi tiết cụ thể, chính xác với thực tế.

    Hoàn cảnh ra đời văn học hiện thực phê phán

    Cho tới hiện tại, người ta vẫn còn rất nhiều những tranh cãi về thời điểm ra đời của văn học hiện thực phê phán. Có những người cho rằng trào lưu này được hình thành từ thời kỳ Cổ đại, phát triển dần dần cho từng thời kỳ. Tuy nhiên, có những người lại cho rằng chủ nghĩa hiện thực này chỉ xuất hiện và phát triển vào khoảng những năm 30 của thế kỷ XIX.

    Trong cuốn Bách khoa toàn thư cho rằng, những tác phẩm hiện thực phê phán đã có từ rất lâu đời, xuất hiện trước khi xuất hiện chủ nghĩa hiện thực. Nhưng chủ nghĩa hiện thực chỉ là một trào lưu nhất thời, nó chỉ thực sự xuất hiện và phát triển rộng rãi vào thế kỷ XIX ở các quốc gia Châu Âu như Anh, Pháp, Nga,… sau đó lan truyền sang nhiều quốc gia trên thế giới.

    Ở Việt Nam, văn học hiện thực phê phán xuất hiện từ thời kỳ trung đại với các tác phẩm nổi tiếng như thơ Nguyễn Khuyến, thơ Hồ Xuân Hương, Chinh phụ ngâm, Truyện kiều,… Đây là những tác phẩm phơi bày một cách khách quan cuộc sống thời bấy giờ.

    Hoàn cảnh ra đời văn học hiện thực phê phán
    Hoàn cảnh ra đời văn học hiện thực phê phán

    Tới những năm 30 của thế kỷ XX, Nguyễn Công Hoan là một trong những thế hệ đi đầu theo khuynh hướng tả thực, lấy tư liệu từ con người, cuộc sống, xã hội thực tế để làm nội dung cho những tác phẩm của mình.

    Đặc biệt, từ năm 1930 – 1945, đây là thời điểm văn học hiện thực phê phán nở rộ với quy mô lớn, nhiều tài năng văn học xuất hiện ở thời điểm này, điển hình như: Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyễn Đình Lạp, Nam Cao,… Những nhà văn này đã mang văn học hiện thực phê phán lên một tầm cao mới, để lại cho nền văn học Việt Nam những tác phẩm để đời, giá trị trường tồn với thời gian.

    Với tấm lòng sâu sắc cộng thêm môi trường sống đã khiến cho các nhà văn có thêm động lực cầm bút, tạo dựng lên những nhân vật, những cảnh đời trong xã hội cũ đầy sự đau thương, thấu hiểu những nỗi đau tận cùng và kết cục bi thảm mà xã hội dành cho con người.

    “Nghệ thuật vị nhân sinh” dường như đã ăn sâu vào máu của những nhà văn trong thời điểm này. Họ viết về cuộc đời họ, viết về người, viết về đời!

    Đã có ý kiến cho rằng: Chưa bao giờ trong văn học Việt Nam lại xuất hiện hàng loạt các tác phẩm hiện thực phê phán xuất sắc đến như vậy! Những tác phẩm đều gây ra những ấn tượng, đôi khi là nỗi ám ảnh đối với những nhân vật trong câu chuyện: Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê (Vũ Trọng Phụng), Bước đường cùng, Tinh thần thể dục (Nguyễn Công Hoan), Tắt đèn, Thiên đường phóng sự việc làng (Ngô Tất Tố),  Bỉ vỏ (Nguyên Hồng), Lão Hạc, Chí Phèo, Một bữa no (Nam Cao),….

    Trào lưu văn hiện thực phê phán ở Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945

    Với bối cảnh loạn lạc, khủng hoảng, mâu thuẫn giữa các giai cấp,… trào lưu văn học hiện thực phê phán ở Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 phát triển rầm rộ. Trong đó, chặng đường phát triển được chia thành 3 giai đoạn, cụ thể:

    • Từ 1930 – 1935

    Nguyễn Công Hoan là tác giả khởi xướng cho văn học hiện thực phê phán ở giai đoạn này với tập truyện “Kép tư bền”. Ngoài ra, người đọc còn biết Vũ Trọng Phụng với phóng sự “Cạm bẫy người” và “Kỹ nghệ lấy Tây”.

    Các tác phẩm cất lên tiếng nói lên án, phê án những bất công, vô nhân đạo trong xã hội lúc bấy giờ. Đồng thời, tác giả cũng bày tỏ sự đau xót, cảm thông với những con người bị áp bức bóc lột tới cùng kiệt sức lực cả về tinh thần lẫn thể xác.

    Trào lưu văn hiện thực phê phán ở Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945
    Trào lưu văn hiện thực phê phán ở Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945
    • Từ 1936 – 1939

    Dù trong thời điểm này, xã hội vẫn có những biến động mạnh mẽ, nhưng cũng chính những biến động này đã tạo điều kiện thuận lợi giúp cho văn học hiện thực phê phán được phát triển mạnh mẽ hơn. Đã thêm nhiều cây bút bắt tay vào văn học hiện thực phê phán với nhiều tác phẩm xuất sắc: nhà văn Vũ Trọng Phụng, nhà văn Nguyễn Công Hoan, nhà văn Ngô Tất Tố,…

    Các tác phẩm tập trung tố cáo tình trạng áp bức, bóc lột, sự giả dối của chế độ cai trị và phơi bày nỗi khổ cực, bất công của những tầng lớp bị trị.

    • Từ 1940 – 1945

    Văn học hiện thực càng ngày càng được thể hiện rõ nét hơn, nổi bật hơn với những sáng tác nổi tiếng của nhà văn Nam Cao. Ngòi bút nam cao hướng tới việc phân tích xã hộ thông qua những diễn biến tâm lý nhân vật.

    Ở cả ba giai đoạn, các nhà văn đều là một nhà sử học ghi chép lại tất cả những gì diễn ra trong cuộc sống hàng ngày của con người, là một nhà họa sĩ vẽ lại toàn cảnh một bức tranh xã hội đen tối, phơi bày tất cả ra trước mắt người đọc.

    Bước đường cùng, Số đỏ, Bỉ vỏ, Tắt Đèn, Lão Hạc, Chí Phèo,… là những tác phẩm lên án mạnh mẽ xã hội thối nát, tha hóa con người, tạo nên bi kịch, sự ảm đạm, xơ xác từ thành thị tới nông thôn, những tệ nạn xã hội, những người bị đẩy tới bước đường cùng, không thể thoát ra “vũng bùn” do xã hội tạo ra.

    Yếu tố thời đại chính là điểm mấu chốt cho sự phát triển của văn học hiện thực phê phán. Nếu không có xã hội “biến chất” lúc bấy giờ, chắc khó có thể có những Nam Cao, những Ngô Tất Tố, những Lão Hạc, những chị Dậu,… không thể nào quên trong lòng người đọc!

    Khái niệm, hoàn cảnh ra đời và trào lưu văn học VN giai đoạn 1930 – 1945 như thế nào? Tất cả đã được chúng tôi giải đáp đến bạn. Mong rằng, những thông tin trên sẽ phần nào hữu ích với bạn đọc. Mọi thắc mắc hãy để lại cho chúng tôi ở dưới phần bình luận.

  • Lòng biết ơn là gì? Trên đời bạn biết ơn ai nhất? Ý nghĩa của lòng biết ơn

    Lòng biết ơn là gì? Trên đời bạn biết ơn ai nhất? Ý nghĩa của lòng biết ơn

    Lòng biết ơn là gì? Một trong những đạo lý con người quý báu của con người, nó mang lại những năng lượng kỳ diệu, sở hữu sức mạnh chữa lành và sức thu hút tới những gì bạn mong muốn đạt được. Nó cũng là khởi nguồn của rất nhiều các đức tính tốt đẹp khác.

    Tìm hiểu về lòng biết ơn là gì?

    Lòng biết ơn là thái độ trân trọng, cảm kích hoặc sự đền đáp trước những việc làm tốt đẹp, giúp đỡ tận tình của người khác dành cho mình. Đây chính là truyền thống tốt đẹp của ông cha ta được gìn giữ từ bao đời nay vẫn không ngừng được giáo dục và noi theo ở thế hệ trẻ.

    Tìm hiểu về lòng biết ơn là gì?
    Tìm hiểu về lòng biết ơn là gì?

    Một xã hội đáng sống là một xã hội có nhiều thông điệp tốt đẹp, ở đó có những con người biết nói lời cảm ơn những người xung quanh, tạo những giá trị tinh thần tốt đẹp cho tất cả mọi người.

    Không chỉ như vậy, bản thân chúng ta là một người có lòng biết ơn, sẽ tôi luyện các đức tính khác trở nên tốt đẹp, sống giàu lòng yêu thương, sống có ích với xã hội, mang năng lượng tích cực truyền tải tới tất cả mọi người xung quanh.

    Mỗi người mang trong mình lòng biết ơn nhỏ tạo nên cả đất nước với truyền thống biết ơn to lớn – một xã hội văn minh, phát triển bển vững.

    Trên đời người chúng ta biết ơn nhất là ai?

    Mỗi người xuất hiện trong cuộc đời chúng ta dù ngắn hay dài, dù đã gặp gỡ hay chưa, dù mang đến niềm vui hay nỗi buồn thì chắc chắn, tới một thời điểm nào đó, bạn sẽ phải biết ơn họ. Có thể họ không mang lại tiền bạc, vật chất hay những món quà về tinh thần cho bạn, nhưng chắc chắn họ sẽ mang lại cho bạn những trải nghiệm, những bài học mà không ai có thể làm tương tự:

    Đầu tiên, người chúng ta cần phải biết ơn nhất trên cuộc đời chính là bố mẹ – những người đã có công sinh thành, nuôi dưỡng chúng ta từ nhỏ tới khi trưởng thành. Bố mẹ yêu thương chúng ta vô điều kiện, dành tất cả những gì tốt đẹp nhất của đời người cho bạn, cho chúng ta hạnh phúc, đầy đủ. Dù bạn có trưởng thành tới đâu, đối với cha mẹ, bạn luôn là đứa con bé bỏng, luôn sẵn sàng chờ đón những đứa con ngay cả khi chúng phạm phải lỗi lầm.

    Sau bố mẹ, những người thân thiết như vợ chồng, con cái, ông bà, dì chú, anh chị em cũng là những người chúng ta cần phải biết ơn. Bởi họ chính là những người luôn bên bạn mỗi khi gặp khó khăn, sẵn sàng giúp đỡ khi bạn thất bại, dành cho bạn những lời khuyên hữu ích khi bạn gặp rắc rối trong cuộc sống.

    Trên đời người chúng ta biết ơn nhất là ai?
    Trên đời người chúng ta biết ơn nhất là ai?

    Thứ hai, người mà chúng ta cũng cần ghi nhớ công ơn và thể hiện lòng biết ơn chính là thầy cô giáo. Họ chính là người gieo con chữ đầu tiên “a, b, c” tới những kiến thức nâng cao, kinh nghiệm cuộc đời để chúng ta có đầy đủ hành trang để bước vào “trường đời”. Chẳng phải vì thế mà ở Việt Nam chúng ta có riêng một ngày “20/11 – Ngày Nhà giáo Việt Nam” để tri ân những người làm giáo, thời điểm để học trò trên cả nước nhớ về thầy cô.

    Thứ ba, bạn bè cũng là những người không thể thiếu trong cuộc sống của chúng ta, họ chẳng phải là người thân nhưng không dễ thay đổi. Họ đồng hành trên mọi nẻo đường, cho chúng ta lời khuyên, cho chúng ta lời giải, giúp đỡ trong cuộc sống và công việc mà không toan tính. Đặc biệt, những người bạn tốt còn cùng chúng ta phát triển lâu dài, tạo động lực để cùng tiến tới đích thành công.

    Ngoài ra, chúng ta còn phải biết ơn tất cả những người từng xuất hiện trong cuộc đời ta: người ủng hộ mình, người bao dung mình, đồng nghiệp, người đem đến cho ta niềm vui, người đã làm ta tổn thương, người yêu cũ và thậm chí là những đối thủ cạnh tranh của chúng ta,… Tất cả!

    Có thể ở thời điểm hiện tại một người có thể mang lại khó khăn, nỗi buồn, thậm chí là cả thất bại cho bạn. Nhưng ngày sau, tuần sau, tháng sau, năm sau,… họ lại là người chúng ta biết ơn bởi những bài học họ mang lại, những thử thách họ tạo ra đã tôi luyện cho chúng ta trở thành người tốt hơn, nỗ lực hơn và thành công hơn.

    Hãy rèn luyện cho mình lòng biết ơn với mọi thứ diễn ra trong cuộc sống, với mọi người xung quanh để mỗi ngày là một ngày thú vị, thấy bản thân trưởng thành hơn, mạnh mẽ hơn, tích cực hơn!

    Ý nghĩa của lòng biết ơn

    Việc xây dựng cho bản thân lòng biết ơn với mọi mọi điều diễn ra trong cuộc sống sẽ giúp chúng ta sống tích cực hơn, ý nghĩa hơn. Cả người nói lời cảm ơn lẫn người được cảm ơn đều sẽ cảm thấy vui vẻ, hạnh phúc, thúc đẩy mối quan hệ thêm gắn kết, tình nguyện giúp đỡ nhau nhiều hơn trong tương lai. Từ đó, tất cả mọi người sẽ cùng nhau tạo nên một xã hội giàu lòng yêu thương, luôn quan tâm, giúp đỡ, cùng phát triển đi lên.

    Tuy nhiên, trong xã hội ngày nay, nhiều người khi được người khác giúp đỡ lại có thái độ “qua cầu rút ván”, ngoảnh mặt làm ngơ, thờ ơ, dửng dưng,… Lại có không ít người lại vô tâm đứng nhìn người khác gặp khó khăn mà không muốn giúp đỡ. Đây là những hành động kém tinh tế cần được loại bỏ để xã hội ngày được tốt hơn.

    Ý nghĩa của lòng biết ơn
    Ý nghĩa của lòng biết ơn

    Thực tế trong tâm hồn của mỗi chúng ta không phải người vô ơn bởi giữa mình và những người xung quanh đều có những sợi dây gắn kết nhất định. Nhưng vì cuộc sống bộn bề những lo lắng, mệt mỏi, tiền bạc, mưu sinh cho cuộc sống, những khó khăn gặp phải mà họ không còn thời gian hoặc tỏ ra vô tâm với mọi thứ diễn ra xung quanh.

    Đây chính là điều mà chúng ta cần khắc phục để thói quen tâm lý này không bị ăn sâu vào tiềm thức, xói mòn đạo đức. Đồng thời, chúng ta cũng cần lên án, phê phán những kẻ lừa thầy dối bạn, bất hiếu, phá hoại tài sản quốc gia, có mới nới cũ, có trăng quên đèn, quên đi cội nguồn dân tộc,… Thật đáng trách!

    Cảm ơn bạn đọc đã dành thời gian theo dõi nội dung chia sẻ về lòng biết ơn của Nhà văn TP.HCM. Thời gian tới, chúng mình sẽ cập nhật thêm các bài viết hữu ích về nhà văn, nhà thơ, các phẩm văn học và nhiều bài viết nghị luận văn học, nghị luận xã hội. Mời bạn đọc đón xem!