Blog

  • Trên những ngả đường đời – Trịnh Văn Sỹ

    Trên những ngả đường đời – Trịnh Văn Sỹ

    Người kể chuyện về một thời đã qua trên những ngả đường đời
    Người kể chuyện về một thời đã qua trên những ngả đường đời

    Người kể chuyện về một thời đã qua trên những ngả đường đời

    QUỲNH VÂN

    NVTPHCM- “Trên những ngả đường đời”- cuốn hồi ký của Thượng tá Trịnh Văn Sỹ, nguyên Phó Trưởng phòng Cảnh sát Giao thông đường bộ – đường sắt, CATP Hà Nội vừa chính thức được Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành.

    Hơn 300 trang sách, 26 câu chuyện nhỏ khái quát về cuộc đời 40 năm trong nghề của tác giả, từ khi còn là học viên cho tới khi ra trường, nhận công tác. Trong suốt quãng thời gian đó, những câu chuyện buồn – vui, với những con người rất đỗi tử tế mà tác giả từng gặp để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng ông. Để rồi, đến một ngày, thư thái hơn, ông đã cầm bút viết về những hồi ức đẹp đẽ ấy!

    Ký ức hiển hiện về một thời đã xa

    Lật tìm thông tin, ngỡ ra, tác giả Trịnh Văn Sỹ không phải là cái tên quá xa lạ với giới văn chương. Hơn 1 năm trước, khi cuốn sách “Trong ngôi nhà của mẹ” của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều ra đời, những người yêu văn chương đã biết đến Trịnh Văn Sỹ với tư cách là người kể chuyện. Đó là câu chuyện có thật – của gia đình ông – về cuộc đời của mẹ ông với những thông điệp về kiếp người và lẽ sống.

    Ở đó hiện lên hình ảnh cuộc đời của một người phụ nữ nông dân đồng bằng Bắc bộ, đằng đẵng một đời khổ ải, đã sống trong đói rét, ốm đau, sợ hãi, bệnh tật nhưng tất cả chẳng là gì bởi trong trái tim người phụ nữ ấy luôn ắp đầy tình yêu thương với mơ ước vào một ngày mai tốt đẹp cho những đứa con của mình.

    Và cho dù cuộc đời này có biết bao thăng trầm, có lúc tuyệt vọng đến cùng cực, những đứa trẻ trong dòng họ Trịnh Văn ở làng Đa Sỹ, Hà Đông vẫn nhận ra rằng – được sinh ra và lớn lên trên thế gian này là một điều may mắn. Bởi, chúng được sống và chứng kiến biết bao câu chuyện đời, chuyện người…

    Không còn vai trò là người kể chuyện như “Trong ngôi nhà của mẹ”, với cuốn hồi ký này, Trịnh Văn Sỹ đã đứng ở một vị thế khác – tác giả. Mỗi câu chuyện trong “Trên những ngả đường đời” đều mang đến cho bạn đọc sự nhẹ nhàng và nó cũng được tác giả kể theo cách rất nhẹ nhàng. Bắt đầu từ những ngày tháng đầu tiên – năm 1977 khi tác giả nhận quyết định nhập học tại trường Sĩ quan Cảnh sát nhân dân cho tới những ngày công tác cuối cùng, chờ nhận sổ hưu.

    Thế hệ sinh ra vào những năm cuối thập niên 70 như tôi bây giờ, dù có đọc bao nhiêu trang sách cũng không thể hình dung một cách tỏ tường thế hệ cha mẹ chúng tôi, thế hệ của tác giả Trịnh Văn Sỹ… đã phải trải qua những ngày tháng đất nước gian khó thế nào. Bữa ăn tập thể chỉ có cơm độn bo bo, bánh “nắp hầm” rồi thì “canh toàn quốc”, đói thì triền miên nhưng tình cảm bạn bè, thầy trò gần gũi, thực lòng yêu thương bao bọc che chở cho nhau.

    Lòng yêu nghề của lứa học viên năm ấy được bồi đắp dần qua lời răn dạy và cả tấm gương đạo đức của những thầy cô ở trường học năm ấy. Đó còn là tấm lòng nhân ái của những người dân ở Suối Hai, những khó khăn trong công việc, những dày vò và cả những cạm bẫy của “nghề nguy hiểm”…

    Thượng tá Trịnh Văn Sỹ – Phó Trưởng phòng Cảnh sát Giao thông đường bộ – đường sắt,

    CATP Hà Nội và Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton trong một chuyến thăm của bà tới Việt Nam

    40 năm, 300 trang viết và tình cảm, niềm vui, nỗi buồn, sự rung động

    Nếu bảo, cuốn hồi ký “Trên những ngả đường đời” của tác giả Trịnh Văn Sỹ là chuỗi ký ức của một cá nhân thì cũng đúng, nhưng nếu nói nó là một câu chuyện “bếp núc” của một nghề thì cũng không sai. Không đi sâu vào những công việc mang tính chuyên môn, tác giả dành nhiều thời gian để kể lại những câu chuyện đầy lòng nhân ái.

    Đó là vào năm 1996,  khi những cán bộ của Phòng Cảnh sát giao thông, Công an tỉnh Hà Tây (cũ) điều tra một vụ gây tai nạn giao thông rồi bỏ chạy khiến cơ quan công an phải “tung” các mũi điều tra khắp nơi. Chuyến đi Sơn La để xác minh thông tin khi ấy của tác giả cùng đồng đội của mình đã trở thành một chuyến công tác “nhớ đời”. Trời. Mưa. Núi lở. Vùi lấp đường đi.

    Rất may, không ai bị thương, dìu nhau lội được qua nương ngô mà nước đã ngập tới thắt lưng thì Trịnh Văn Sỹ và đồng đội của mình gặp được một nhà dân. Hai vợ chồng người dân tộc Mông khi ấy không chỉ đốt lửa hong khô quần áo, nấu cơm để cán bộ dưới xuôi ăn cho đỡ đói bụng mà còn giúp cán bộ đẩy xe ra khỏi nơi núi sạt… Đó cũng là lần tác giả Trịnh Văn Sỹ tình cờ gặp hai vợ chồng người địa phương tìm đến trạm Xuân Mai, sụt sịt khóc cảm ơn cán bộ trong trạm đã cứu con mình khi đứa bé bị tai nạn giao thông…

    Trong cuốn sách này, Trịnh Văn Sỹ dành nhiều “đất” để nói đến những người đồng đội của mình, có người hơn anh về tuổi nghề lẫn tuổi đời. Lại có những người mới chập chững bước những bước đầu tiên, nhưng nhìn cách họ sống với đồng nghiệp, cống hiến cho công việc ông tâm sự rằng ông học được ở họ rất nhiều.

    Hỏi tác giả Trịnh Văn Sỹ cú hích nào khiến ông cầm bút viết lại một phần cuộc đời mình. Ông cười bảo, chẳng có cú hích nào cả, 40 năm là một khoảng thời gian đủ dài để ông ngẫm ngợi lại mọi chuyện đã qua, những tình cảm, niềm vui, nỗi buồn và cả sự rung động… Tất cả đều hiện lên trước mắt khiến ông muốn viết ra như là lẽ tự nhiên. 300 trang sách, hẳn là chưa đủ đối với một hành trình dài 40 năm theo, gắn bó và yêu nghề. Thượng tá Trịnh Văn Sỹ tâm sự rằng nếu còn duyên, ông vẫn sẽ tiếp tục thực hiện những trang viết về nghề Cảnh sát Giao thông.

    “Dù mọi thứ có thay đổi đến đâu thì có một thứ không thể nào được phép đổi thay. Bởi nếu thay đổi điều đó thì chúng ta sẽ rơi vào vực thẳm của bóng tối – đó là lòng nhân ái và sự dâng hiến cho con người của mỗi cá nhân cho dù họ ở bất cứ công việc nào, vị trí nào trong xã hội. Chính vì lý do đó mà Trịnh Văn Sỹ đã ngồi xuống viết về đồng đội anh, những cán bộ chiến sĩ Cảnh sát Giao thông Hà Nội. Thông qua lực lượng Cảnh sát Giao thông Hà Nội, chúng ta sẽ phần nào hiểu hơn những cán bộ chiến sĩ Cảnh sát Giao thông Việt Nam” – nhà thơ Nguyễn Quang Thiều nhận định.

    ANTĐ

  • Hoa của đất và nước của Mã Thiện Đồng

    Hoa của đất và nước của Mã Thiện Đồng

    Hoa của đất và nước
    Hoa của đất và nước

    Hoa của đất và nước

    LÊ ANH

    NVTPHCM- “Hoa của đất và nước” là cuốn sách thuộc thể loại Truyền thống – lịch sử, dày 200 trang, tác giả là Mã Thiện Đồng, do NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh phát hành trong quý 1/2017.

    Nói về cuốn sách của mình, tác giả bộc bạch:

    – Trong chúng ta, ai nhớ được đất nước này có tất cả bao nhiêu cái hồ thiên nhiên và bao nhiêu cái hồ nhân tạo? Mặt hồ trong xanh, in bóng hàng cây long lanh trong gió mây trời lồng lộng. Hồ nước ngọt của chúng ta đó, thứ của nả vô cùng quý giá mà thiên nhiên đã ban tặng, đang hiển hiện trước mặt ta đây. Nước hồ tưới mát mặt đất cỏ cây, cho đồng lúa xanh ngát, cho rừng cao su thẳng tắp hàng xa, cho cả miền Đông Nam bộ hiền hòa xum xuê, hoa cỏ đơm bông kết trái cả hai mùa mưa nắng. Cái “túi nước của trời”… có phải trời cho, hay do bàn tay con người tạo nên?

    Không bao xa, mới hơn 30 năm trước khi chưa có hồ Dầu Tiếng, hồ Trị An, cả miền Đông Nam bộ từ Bình Phước, Tây Ninh, tới Củ Chi, Hóc Môn, xuống Đức Hòa, Bình Chánh, từ Đồng Nai đến Bến Cát Bình Dương, khi 6 tháng mùa khô không có mưa, nắng chang chang, cây cối cằn cỗi, cánh đồng xác xơ, mặt đất héo khô, đến bờ đường lối đi cũng biến thành cát.

    Bây giờ, chúng ta có ai tự đặt câu hỏi, vì sao lại có sự đổi thay ấy! “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, chúng ta hãy trở về quá khứ, trở lại với những con người làm thủy lợi ngày ấy để hiểu biết về một thời xây dựng. Từ hồ Dầu Tiếng, đến Thủy điện Trị An, từ hồ Đạ Tẻh, Ayun và hàng loạt công trình thủy lợi cho Đồng bằng sông Cửu Long: kênh Hồng Ngự, Sông Trăng, Tân Hưng, lên hồ Cam Ly Thượng, núi Le, hồ Đá Đen…

    Các công trình mọc lên như Hoa của Đất rực tươi sắc màu. Ta hãy ngược thời gian về với người xây dựng thủy lợi của những năm 1980, ở thời kỳ mà đất nước còn khó khăn gian khổ thiếu thốn trăm bề. Những người nông dân, công nhân, những kỹ sư xây dựng thủy lợi, ngày đêm vất vả gối đất nằm sương, ăn đói mặc rách, đổ mồ hôi, công sức và cả xương máu để chế ngự dòng nước.

    Những con người đã hóa thân vào dòng chảy, đỏ lòng nặng hạt phù sa cho đời; để có Nước cho Đất nở hoa, có Nước gieo mầm xanh cho Tổ quốc; có Nước, có Điện cho Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam xây dựng, phát triển như ngày hôm nay…

    Nhà văn Mã Thiện Đồng sinh năm 1950 tại Hải Dương, nguyên là giáo viên văn THPT tại Long An. Bà bắt đầu nghiệp cầm bút từ năm 2000. Những cuốn sách đã xuất bản được công chúng đón nhận gồm: Biệt động Sài Gòn – chuyện bây giờ mới kể (NXB Tổng hợp TP.HCM), Bóc vỏ trái đất (NXB Văn học), Mạch nguồn (NXB Thanh niên), Ký ức tàu không số (NXB Tổng hợp TP.HCM), Đoàn cảm tử quân trên biển; Hương thôn nữ (thơ)…

    Tác phẩm của Mã Thiện Đồng được đánh giá là những “pho sử” sống động với những nhân vật làm nên lịch sử. Cuốn sách đầu tay của bà là Biệt động Sài Gòn – chuyện bây giờ mới kể.

    Hầu hết các cuốn sách của nhà văn đều thuộc đề tài lịch sử, chị cho biết, từ những cơ hội tiếp xúc với nhiều nhân chứng lịch sử, lâu nay vì một lý do nào đó mà tên tuổi của họ ít được nhắc đến (nếu không muốn nói là không) nên chị cảm kích lòng quả cảm của người chiến sĩ cách mạng. Nghe họ kể về cuộc đời của họ phải lầm lũi mưu sinh khi cuộc chiến đã lùi xa mà xót lòng.

    Từ đó chị nhận ra rằng mình có một tâm hồn đồng điệu, cảm nhận sâu sắc về họ. Và họ trở thành người anh, người bạn từ bao giờ không biết. Và chị muốn tôn vinh những con người đã làm nên lịch sử đó, tôn vinh truyền thống lịch sử bằng chính ngòi bút của mình. Chị tự hào vì việc mình làm được xã hội nhìn nhận tích cực. Mục đích của những cuốn sách còn để khẳng định người làm nên lịch sử là “tài sản tinh thần” vô giá của dân tộc không bị mờ phai theo năm tháng.

  • Sáng tạo không giới hạn trong kinh doanh của Phan Minh Thông

    Sáng tạo không giới hạn trong kinh doanh của Phan Minh Thông

    Sáng tạo không giới hạn trong kinh doanh của Phan Minh Thông
    Sáng tạo không giới hạn trong kinh doanh của Phan Minh Thông

    Người đi tìm gia vị của cuộc sống

    HUỲNH DŨNG NHÂN

    NVTPHCM- “… đôi khi, thành công phụ thuộc vào một cái gì đó bên trong mỗi chúng ta, không phải là kết quả của việc nhiều tiền bạc, khả năng hô hào hay bằng cấp…”

    Đây là lời nói đầu của cuốn sách mà rất có thể bạn sẽ nghĩ rằng nó giống cuốn tự truyện hay chia sẻ kinh nghiệm làm ăn gì đó của một doanh nhân thành đạt. Nhưng không.

    Không quá cầu kỳ và cũng không quá phức tạp như thế. Cuốn sách mang tên Sáng tạo không giới hạn trong kinh doanh này gần như một cuốn tản văn, hay hơn như thế một chút. Tác giả cuốn sách là Phan Minh Thông, Chủ tịch Phúc Sinh Group, một doanh nhân được mệnh danh là “Vua xuất khẩu hồ tiêu” của Việt Nam. Một con người hồ hởi, giản dị, dễ thương. Suy nghĩ hiện đại, táo bạo, phóng khoáng. Anh kinh doanh giỏi, nhạy bén với kinh doanh, dám nghĩ dám làm, từ tay không lập nghiệp mà làm nên vị trí Vua xuất khẩu hồ tiêu số 1 Việt Nam.

    Tôi đọc bản thảo cuốn sách của anh với hai tâm trạng: Tâm trạng dè dặt của một người từng nhiều năm cầm bút và làm biên tập, và tâm trạng tò mò thán phục của một người chưa từng bán nổi một ly trà đá chứ nói gì đến xuất khẩu thu về kim ngạch hàng trăm triệu đô-la. Cuốn sách có ba phần: Câu chuyện kinh doanh, Suối nguồn sáng tạo, Bạn và tôi. Phần Phụ lục là những hình ảnh về công ty và các bức họa mà Phan Minh Thông sưu tập.

    Tôi thích phần Câu chuyện kinh doanh của anh. Nó thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và sự lo âu, quyết đoán, nó có những con số 0 cay đắng, có dấu âm trừ kinh hoàng và có những dãy số hàng trăm triệu đô-la kim ngạch xuất khẩu chói lọi của người con đất Cảng tuổi mới nhích qua con số 40. Anh viết chân thành như anh nghĩ và bằng cách viết của một người có thói quen ghi chép, hay dùng tiếng Anh, giỏi tiếng Anh, luôn chú ý sắm được cái bình bền chắc trước rồi mới cắm hoa đẹp vào.

    Thế hệ của anh sinh ra đúng vào năm đất nước thống nhất hai miền Nam Bắc, cái mới đến mà chưa kịp khẳng định, mọi thứ đều mới mẻ ngỡ ngàng và cũng không ít xáo trộn trong tâm tư tình cảm cũng như cách làm ăn kinh tế. Anh là người dám vứt bỏ cái cũ, thoát ra cái vòng ràng buộc kim cô của cách làm bao cấp quốc doanh (mà đến nay không ít người vẫn muốn bám chặt vào đó).

    Tôi nhớ cách đây chừng chục năm, khi có một nhà báo phỏng vấn Thủ tướng đầu tiên của Cộng hòa Singapore về bí quyết thành công vươn lên thành con rồng châu Á, thì Thủ tướng Lý Quang Diệu đã trả lời đó là nhờ đầu tư vào giáo dục và tiếng Anh cho thế hệ trẻ. Trong cuốn sách của mình, Phan Minh Thông cũng chia sẻ điều ấy. Anh nhận ra rằng nhiều doanh nghiệp Việt Nam thất bại vì… không có tiếng Anh.

    Họ làm việc qua thư ký, phiên dịch, không dám tiếp xúc, ngại tranh luận đàm phán, chưa làm đã sợ, luôn có cảm giác nhược tiểu trước đối tác. Thêm nữa là tư duy bóc ngắn cắn dài, sợ thất bại, không biết làm thương hiệu, lo cho bản thân quá nhiều trước khi lao vào thương trường… đã làm các doanh nghiệp Việt Nam mất đi nhiều thế mạnh ngay chính trên quê hương khá giàu có tiềm năng nguyên liệu và nhân công của mình.

    Tôi đọc những câu chuyện kinh doanh của anh mà cũng nhiều khi muốn lên huyết áp với các mẩu chuyện đi đàm phán, đi đòi nợ và bị nợ đòi, bị trả lại hàng, bị thói vô cảm và phải làm quen với ma trận luật và lệ trong thương trường rất thiếu đồng bộ ở đất nước này. Tuy nhiên anh viết tất cả những kinh nghiệm kinh doanh thành công ấy bằng những câu chuyện cụ thể, bình tĩnh, sẻ chia, không khoe khoang và không lên án, không hằn học ám chỉ những thói hư tật xấu của cái “thương trường cũng như chiến trường” này.

    Tác giả Phan Minh Thông giao lưu bạn đọc tại buổi ra mắt sách sáng 22.12.2017

    Con người từng bao phen “lăn ra ốm” khi không đòi tiền nợ được, đồng nghĩa là chịu mất trắng hàng chục tỷ, sau này bằng sự kiên trì nhẫn nại hiếm thấy và sự quyết đoán táo bạo khó tin ấy, đã đầu tư khép kín sản phẩm đầu vào đầu ra, xây được thêm nhà máy để sản xuất hồ tiêu sạch, lại còn chen chân vào xuất khẩu cà phê và tiến tới triển khai nhiều sản phẩm thuộc ngành gia vị khác. Tôi thích những bài như:

    @ No.1 và chuyện kinh doanh hạt tiêu

    @ Ngọt đắng vị cà phê

    @ Có một thời cơm dừa sấy khô

    @ Học nói “Yes” và “No”

    @ Đi hội chợ lớn nhất hành tinh

    @ Ai phải cảm ơn?

    @ Tôi đi… đòi nợ

    @ Thoát lừa 3 triệu đô-la

    @ Chuyển khẩu – Tư duy mới về xuất khẩu

    @ Duyên nợ Vietcombank

    Tôi thích vì đọc đâu thấm đấy và càng hiểu vì sao chúng ta nên có Ngày Doanh nhân Việt Nam để tôn vinh những người làm giàu đẹp cho đất nước.

    Cuốn sách của Phan Minh Thông giàu chất tản văn hơn khi viết về những câu chuyện gia đình, chuyện người phụ nữ, chuyện về những chuyến đi du lịch. Anh là dân học Ngoại thương nên viết văn là nghề tay trái. Và vì là dân kinh doanh nên nhìn đâu cũng rút ra những ý tứ, kinh nghiệm, những bài học bổ ích làm giàu cho nghề nghiệp của mình. Đối với người viết văn thì viết văn là để truyền đạt chứ không phải để gây ấn tượng. Và theo tiêu chí này thì Phan Minh Thông cũng ít nhiều thành công.

    Còn phần hai của cuốn sách là những món quà của cuộc sống anh đã thừa hưởng sau những năm tháng “đổ mồ hôi sôi nước mắt” với cái mặt hàng gia vị hạt tiêu bé nhỏ mà thơm cay. Đó là phần Suối nguồn sáng tạo:

    @ Phụ nữ Việt

    @ Mua và chơi tranh

    @ Có những niềm riêng

    @ Cuối năm ngồi lại

    @ Nhật ký hành trình: Đi dĩ nhiên là gặp

    @ Singapore, nơi chưa bao giờ mê đắm

    @ Hồng Kông – Thiên đường một thuở

    Người đàn ông lăn lộn kinh doanh từng đã cố gắng có một chuyến đi du lịch cùng gia đình không dính líu đến chuyện hạt tiêu, nhưng rồi những thương vụ lại giành giật anh ra khỏi ngày nghỉ. Người ta giải tỏa áp lực bằng chơi golf, tennis, anh tìm đến nghệ thuật tao nhã là chơi tranh và viết văn. Các ý tưởng xếp hàng đến với anh sau những cuộc tiếp xúc đối tác tưởng như vô tận. Cửa đã mở và anh không còn cơ hội dừng lại, có chăng là một thoáng nghỉ tay để viết cuốn sách.

    Tôi bất ngờ và đặc biệt chú ý phần anh viết về “Chơi tranh và bán tranh” và muốn nói rằng nếu không hiểu con người yêu nghệ thuật hội họa trong anh thì có lẽ là chưa hiểu hết anh, người đã biết thế nào là hương thơm và chất cay của mặt hàng “bé hạt tiêu” mà ít ai đầu tư dù nó luôn có mặt trong bữa ăn hàng ngày của mỗi gia đình. Phan Minh Thông không muốn bức tường doanh nghiệp đồ sộ của mình thiếu vắng những bức tranh nghệ thuật và giá trị.

    Anh yêu tranh nên bỏ tiền mua tranh. Nhưng anh cũng yêu tranh để biết từ chối bán tranh khi có ai đó dòm ngó ngãgiá bức tranh quý trong bộ sưu tập, hoặc khi người mua khiến anh chưa cảm nhận được thiện chí và tình yêu cùng tác phẩm. Và nay anh lại có thêm cuốn sách nhỏ trong hành trang của mình, điều đó cho thấy anh là người luôn sống hết mình để đi tìm và làm giàu thêm Gia vị của cuộc sống.

  • Tái bản Ngũ quái Sài Gòn của Bùi Chí Vinh

    Tái bản Ngũ quái Sài Gòn của Bùi Chí Vinh

    Tái bản “Ngũ quái Sài Gòn”
    Tái bản “Ngũ quái Sài Gòn”

    Tái bản “Ngũ quái Sài Gòn”

    TƯỜNG VÂN

    NVTPHCM- Trong dòng sách thiếu nhi, bên cạnh cái tên Nguyễn Nhật Ánh vốn quá quen thuộc với bạn đọc thì còn một cái tên khác là nhà văn Bùi Chí Vinh với bộ truyện thiếu nhi nổi tiếng Năm Sài Gòn.

    Sáng 23-8, bộ truyện này đã được NXB Trẻ chính thức tái bản với nhiều nét mới lạ trong đó nổi bật là việc đổi tên thành Ngũ quái Sài Gòn.

    Khoảng năm 1994-1996, NXB Kim Đồng đã đặt hàng nhà văn Bùi Chí Vinh “Việt hóa” bộ sách thiếu nhi nổi tiếng của Đức có nhan đề Tứ quái TKKG của nhà văn Rolf Kalmuczak, với bút danh Stefan Wolf. Đây là một hình thức làm sách quen thuộc thời đó khi dựa vào tác phẩm gốc của nước ngoài và chỉnh sửa lại cho phù hợp với bạn đọc trong nước.

    Nhà văn Bùi Chí Vinh đã “Việt hóa” TKKG bằng cách viết lại toàn bộ, chỉnh sửa, cắt xén cũng như thêm thắt nhiều chi tiết và nhân vật không có trong truyện và bộ sách đã rất thành công. Năm 2009, Công ty TNHH Văn hóa Vàng Anh mua bản quyền bộ truyện TKKG và đã ra mắt độc giả Việt Nam bản dịch chuẩn vào tháng 3-2010 nhưng không mấy thành công.

    Như chính nhà văn Bùi Chí Vinh thừa nhận, thành công của TKKG khi đó đã khiến ông nung nấu thực hiện một tác phẩm về những nhân vật thiếu nhi trừ gian diệt bạo “thuần Việt” và từ đó Năm Sài Gòn xuất bản lần đầu vào năm 1996. Tác giả cũng không phủ nhận sự ảnh hưởng của TKKG trong việc xây dựng tuyến nhân vật nhưng đó là điểm chung duy nhất. Toàn bộ bối cảnh, sự kiện, tâm lý… hoàn toàn mang đậm màu sắc đường phố Việt Nam khi đó.

    Vào những năm 90 của TK 20, bộ sách Năm Sài Gòn đã rất thành công khi đánh trúng tâm lý bạn đọc nhỏ tuổi khi đó đang thiếu môt tác phẩm mang chất hào hùng, mạnh mẽ, mang chất anh hùng. Bộ truyện tổng cộng gồm 40 tập đã được nhiều NXB như Kim Đồng, Thanh Niên… in đi in lại nhiều lần. Năm 2006, tác phẩm được dựng thành phim truyền hình và lấy tên là Ngũ quái Sài Gòn.

    Trong lần tái bản mới nhất này, bộ truyện sẽ chính thức lấy tên là Ngũ quái Sài Gòn và được sắp xếp lại với 20 tập, mỗi 2 tuần sẽ ra mắt 1 tập.

    Ngũ quái Sài Gòn gắn liền với những đam mê, khát vọng hành hiệp của tuổi trẻ những năm 90. Tác phẩm được ví von đã góp phần khơi dậy dòng máu anh hùng của tuổi trẻ Việt dù ở bất cứ đâu, sống thế nào và làm nghề gì. Văn phong mang đậm chất đời thường, chất đường phố và đặc biệt là với sự hiểu biết về thế giới bụi đời ngày đó từ cách thức sinh hoạt, tiếng lóng, lối sống… khiến bộ truyện tạo nên ấn tượng cho giới trẻ khi ấy.

    Với thế hệ trẻ hiện nay, bộ truyện có thể xem như là một hình thức tái hiện quá khứ, để giới trẻ hiện nay phần nào hiểu thêm những gì mà thế hệ đi trước cũng như chuyển tải giá trị xuyên suốt là tinh thần dũng mãnh, thẳng thắn và trọng nghĩa. 

  • Đi tìm ẩn ngữ văn chương – Trần Hoài Anh

    Đi tìm ẩn ngữ văn chương – Trần Hoài Anh

    Đi tìm ẩn ngữ văn chương – Trần Hoài Anh
    Đi tìm ẩn ngữ văn chương – Trần Hoài Anh

    NVTPHCM- Văn chương, tự bao đời luôn là hành trình của khám phá và sáng tạo. Đó là một hành trình đi tìm cái mới, lạ trong hiện thực để trả lời những vấn đề cuộc sống đặt ra.

    Vì vậy, trong sáng tạo văn chương, việc khát khao đi tìm cái mới là một phẩm tính của người cầm bút, nó hoàn toàn xa lạ với lối viết theo khuôn mẫu được lập trình sẵn, không quan tâm đến cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ.

    Bởi, theo Nam Cao “Văn chương không cần đến người thợ khéo tay, làm theo một kiểu mẫu đưa cho: Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, sáng tạo những cái gì chưa có…” (Đời thừa – Nam Cao). Công việc của người viết lý luận phê bình, phải chăng cũng là hành trình sáng tạo, kiếm tìm cái mới để tạo nên sự kết nối tri âm từ nhà văn đến người đọc qua những thông điệp ẩn chứa trong tác phẩm.

    Với ý nghĩa ấy, tập sách Đi tìm ẩn ngữ văn chương gồm có 4 phần: 1/ Lý luận – phê bình văn học miền Nam trước 1975 – Di sản văn chương dân tộc. 2/ Lý luận – phê bình văn học thời kỳ đổi mới từ một góc nhìn 3/ Về một số hiện tượng thơ Việt Nam hiện đại. 4/ Về một số hiện tượng văn xuôi Việt Nam đương đại, gởi đến các bạn là những nghĩ suy của người viết trong quá trình cảm nhận, giải mã các hiện tượng văn học, để tìm ra các giá trị phía sau những diễn ngôn mà nhà văn thể hiện.

    Hiểu một con người đã khó. Hiểu văn chương của họ lại càng khó hơn. Vì vậy, trong hành trình đi tìm ẩn ngữ các tác phẩm văn chương, người viết không có tham vọng sẽ giải mã tất cả những gì nhà văn nói đến trong tác phẩm mà chỉ mong những “khám phá” của mình có thể chạm đến một phần nào chân lý nghệ thuật và chân lý đời sống được nhà văn gởi gắm trong tác phẩm. Từ đó, hy vọng tạo một chiếc cầu kết nối những tri âm.

    Ước mơ và khát vọng của con người thì vô hạn nhưng năng lực của mỗi người thì hữu hạn. Vì vậy, tập sách sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong bạn đọc sẻ chia và lượng thứ. Bởi với tôi, dấn thân vào văn chương là thực thi những điều định mệnh và phận số đặt để, không hề có tham vọng thực hiện một sứ mệnh nào cả…

    Một nền văn chương đích thực là một nền văn chương hướng đến con người và vì con người với những giá trị nhân bản sâu sắc nhất. Người sáng tạo văn chương dù hoạt động ở lĩnh vực nào cũng không được xa rời những giá trị nhân văn ấy.

    Vì vậy, Đi tìm ẩn ngữ văn chương với tôi cũng là hành trình đi tìm những giá trị nhân bản vốn là những yếu tính không thể thiếu của mọi nền văn học hôm nay và mai sau…

  • Đêm nay con có mơ không? – Trương Gia Hòa

    Đêm nay con có mơ không? – Trương Gia Hòa

    Đêm nay con có mơ không? – Trương Gia Hòa
    Đêm nay con có mơ không? – Trương Gia Hòa

    HUÂN HUÂN

    NVTPHCM- Đêm nay con có mơ không? là cuốn tạp văn được thực hiện bởi Trương Gia Hoà – một tác giả với giọng văn nữ tính.

    Khi nói về thơ ca, Walt Whitman – nhà thơ nổi tiếng của Mỹ bảo, tác phẩm của một người viết vĩ đại chính là làm cho nô lệ vui vẻ, làm cho những ông vua tàn bạo sợ hãi. Niềm vui của nô lệ mà Whitman nói đến là gì nếu không là chức năng cứu rỗi cảm xúc?

    Những xúc cảm tích cực mà người viết truyền đến cho bạn đọc sẽ là món quà quý giá, gột rửa những bụi bặm vốn có của đời sống. Cuốn tạp văn Đêm nay con có mơ không? của tác giả Trương Gia Hòa có thể xếp vào danh sách những món quà như vậy.

    Không “đao to búa lớn” để làm nên sự vĩ đại, từng mẩu chuyện nhỏ mà Trương Gia Hòa mang đến cho bạn đọc đôi khi chỉ là những ghi chép tỉ mẩn của một bà mẹ công chức “bỉm sữa” yêu con, vừa đi làm, vừa vén khéo chuyện nhà; là nỗi nhớ nhung xa xôi của một người luôn hướng về gia đình lớn, cội rễ để mình đâm chồi, nảy lộc; là những băn khoăn của một thị dân trước những đổi thay của cuộc sống hiện đại… Tất cả, phác thảo nên một Trương Gia Hòa nhiều ưu tư, nhiều trăn trở nhưng vẫn hết sức hồn nhiên, tin yêu.

    Hiện thực cuộc sống, dù đáng chán thế nào, chị cũng tìm một góc nhìn khác, để thấy rằng những giá trị nền tảng trong văn hóa, đời sống, ứng xử của người Việt chưa hoàn toàn mất đi, nếu chúng ta biết gìn giữ, dung hòa. Sự chậm rãi bảo bọc truyền thống nơi người già và cái vô tư, thời thượng của người trẻ mà Trương Gia Hòa mang đến cho bạn đọc chứa đủ cả vui lẫn buồn.

    Nhà thơ Trương Gia Hòa cùng người thân, bạn đọc tại buổi ra mắt sách Đêm nay con có mơ không? tại Đường Sách TP.HCM 5.8.2017

    Theo dõi những dòng tự sự của tác giả, người đọc sẽ thấy ai cũng có một chốn náu nương không gì có thể thay thế được: gia đình. Với Trương Gia Hòa, đó là bàn tay ve vuốt của bà nội, là những câu hỏi quan tâm lạc thời: Được tăng lương chưa, chồng con có ngoan không… Tình yêu thương thể hiện một cách mộc mạc ấy chính là những liều thần dược mà cô được tiêm vào máu thịt sau mỗi bận rã rượi với bao bon chen, rời phố thị, trở lại quê nhà.

    Vượt xa hơn những thân tình diễn ra dưới mái tranh quê, chợt nhận ra, không quá khó để thích nghi với những áp lực, chật chội, bức bối của phố thị, nếu biết chọn một cách nghĩ – cách sống phù hợp, và lành, như Trương Gia Hòa.

    Trong lời yêu thương gởi con trước giờ giao thừa, bà mẹ này gửi gắm: “Khi không biết được ngày mai ta sẽ thế nào thì hôm nay, đừng giận hờn ai con nhé. Hãy sống thật vui vẻ. Con cứ cười khi thấy vui và hãy cười cả khi lòng tan nát. Giận hờn, ghen tức, tranh chấp hơn thua sẽ khiến cuộc sống chúng ta nặng nề mà thôi. Mỗi ngày được sống là một món quà, nếu con vui tức là con đang có lãi…”.

    Được biết đến là một giọng thơ giàu nữ tính của văn học Sài Gòn thế hệ lớn lên sau chiến tranh, là một nhà báo đứng mục trên một số tạp chí với các bài viết “ngợi ca sống chậm”, khi Trương Gia Hòa viết tản văn, ngòi bút của chị trong trẻo, hiền hòa và gần gũi. Cái cách chị chọn đại từ trong Đêm nay con có mơ không? thật lạ: Bạn. Có thể hiểu chị đang thủ thỉ tâm tình với một người bạn thân, hay độc thoại, và chắc chắn, đó cũng chính là bạn đọc.

    Khép sách lại, chữ nghĩa của Trương Gia Hoà để lại những dư vị ngọt ngào, mùi hương quyến rũ khó quên. Trong một tản văn, chị viết: “Khi mặt đất vẫn lắm chông gai thì chúng ta vẫn còn một bầu trời lấp lánh”.

  • Vẻ đẹp của… Nến, bờ sông và acoustic

    Vẻ đẹp của… Nến, bờ sông và acoustic

    Nến, bờ sông và acoustic của Nguyễn Mỹ Nữ
    Nến, bờ sông và acoustic của Nguyễn Mỹ Nữ

    Vẻ đẹp của… Nến, bờ sông và acoustic

    LÊ HOÀI LƯƠNG

    NVTPHCM- Có cách kể nhẩn nha, có vận dụng tối đa ngôn ngữ bình dân, vùng miền, có gom ghép dặm mắm thêm muối cho đầy câu chuyện…, nhưng tất cả đều hút vào duy nhất ánh nến thinh lặng trong đêm tự cổ xưa, cái ánh sáng của vẻ đẹp tâm hồn đơn giản nhất…

    Giờ tôi hiểu thêm vì sao Nguyễn Mỹ Nữ có nhiều bạn đọc, văn và báo. Và chị đàng hoàng sống bằng chữ, dù qua mấy long đong mưu sinh. Chị viết tuốt mọi thể loại, để kiếm sống, và cũng vui trong việc người cầm bút có bạn đọc. Khác với gánh chè chị bán, nghề em-xi chị từng: kia chỉ kiếm mấy đồng trang trải, này là được chia sẻ và có người chia sẻ, có phản hồi nữa. Chị không có ý làm “nhà văn” cho “sang”, sau một tai nạn, nằm dưỡng bệnh, viết thử may ra, và được in, có tiền. Rồi làm thiệt. Gặt hái nhiều giải thưởng văn chương, báo chí. Mới chơi tới luôn, chuyện chữ.

    Đến giờ, chị đã in 7 tập sách văn xuôi, cho thiếu nhi, cho người lớn, truyện ngắn, tạp văn. Mà căn bản là các nhà xuất bản in, trả nhuận bút chứ không kiểu nhà nhà sáng tác nhà nhà in, nếu có tiền, nếu không vướng a b c gì. Các nhà làm sách kinh doanh nhạy lắm, cuốn nào bán được họ mới in, không sạt nghiệp. Và nhà văn Nguyễn Mỹ Nữ nằm trong danh mục “kinh doanh” được này. Chị có bạn đọc, đơn giản vậy.

    Nến, bờ sông và acoustic tập hợp những bài chị viết trên báo, bảy tám trăm, ngàn chữ. Gọn lỏn, xinh xắn đề tài và độ dài. Có cảm giác, báo cần nghàn rưởi, hai ngàn chị cũng làm luôn, miễn được in, có tiền. Như nhu cầu hàng chợ, mua gì bán nấy. Nhưng chính sự ổn định “hàng” bán của chị, phải hiểu vì sao chị bán hoài mà vẫn có người mua.

    Vì mặc bao mưa gió thời tiết, xu hướng, Nguyễn Mỹ Nữ vẫn đơn giản con đường mình chọn- và chắc rằng cũng là sở trường của chị: tình yêu thương mênh mông chị dành cho cuộc đời, con người, dù cuộc đời có lúc chơi khăm, con người có khi phản bội hay gây thất vọng. Cả văn và báo, chị duy nhất một ưu thế này. Thì ra, bao giờ mọi cung bậc chữ tình vẫn cuốn hút, ít ra là làm xúc động lòng người.

    Nó không có gì cả, chỉ những chuyện, những cảnh, những đời người chung quanh. Cũng không có chuyện nâng lên thành triết lý cao siêu gì. Không đúc kết như kinh nghiệm sống, như an ủi động viên ai. Chị trọn gói là người quan sát, lắng nghe, đồng cảm và yêu thương. Theo cách của chị, là con người với con người, chứ không nhà văn, nhà báo nào cả! Nguyễn Mỹ Nữ riêng, khác là ở những điều ấy. Riêng, khác tự thân chứ không sắm vai, và thực, muốn sắm chị cũng không sắm được. Nguyễn Mỹ Nữ tinh khôi. Chị chinh phục bạn đọc từ tinh khôi này.

    Đã nói là chuyện chung quanh đời sống tình cảm gia đình- những người thân, chuyện chợ rổ rau con cá, chuyện bạn bè, chuyện bông hoa, tiếng chim, tắm biển, bài hát, bức tranh, cả những đề-phô trái khoáy nào đó phải chịu đựng hay bi bô con trẻ, hay miếng ăn, hay một cảm xúc bất chợt…, lạ lùng sao, chút gì Nguyễn Mỹ Nữ cũng viết được, nhẩn nha quanh mấy chuyện đơn giản ấy mà đọc vẫn trôi, vẫn cuốn hút. Không cao siêu gì cũng không mơn man giới bình dân, cái ma lực ấy từ đâu?

    Từ nhẩn nha có duyên của chị. Từ những lan man chữ nhấn nhá của chị. Rồi bất ngờ một đúc kết, một suy nghiệm đoạn cuối. Và từ những cái tít bắt mắt nữa, như Đi chợ dòm chơi, Mùi lứa đôi và sắc đỏ trạng nguyên, Cách đi tới của bóng tối và vòng tay con trẻ, Cõng bà đi gội đầu, Gửi má đầu chợ, Được làm thùng rác, Những cánh hoa lương thiện…, v.v.

    Nhưng yêu thương, cúi thật sát xuống cận kề những phận người vô danh, vất vưởng là chưa đủ. Nó chỉ là cảm thông, chia sẻ, trân trọng, động viên. Nếu đọc lai rai những bài viết của Nguyễn Mỹ Nữ trên báo, ta chỉ thấy cái điều đáng quý ấy ở hồn văn chị.

    Lựa chọn, tập hợp thành 50 mảnh đời, góc riêng trong Nến, bờ sông và acoustic của nhà văn bất ngờ cho ta một cảm nhận khác: ở đó đều ngời ngợi, lung linh ánh thiên đường, dù bé mọn, đơn độc. Phải, nhẩn nha Nguyễn Mỹ Nữ là nhẩn nha với ánh sáng diệu kỳ những chớp lòe đom đóm đêm tối trời; khi thản hoặc bất chợt, khi quần tụ như lễ hội nồng nhiệt mê cuồng trên giăng giăng lùm bụi sông đêm.

    Cái lặng im cùng ly rượu của một đôi vợ chồng lớn tuổi với màu đỏ hoa trạng nguyên trong ánh nến và thời gian đã ngừng trôi (Mùi lứa đôi và sắc đỏ trạng nguyên). Được ngồi đúng cái hốc quán cà phê quen, một góc khuất nhỏ bé ngó chung quanh, được gặp lại người chủ quán mấy chục năm xưa với nguyên cái phong thái lịch sự, ân cần trong chừng mực, ngước dõi phố cao mà thấu cảm thời gian trên từng phận người (Góc quán dõi phố cao). Một mẹ già yếu được con hiểu ý dắt ra chợ gần nhà, để hóng hớt, để chào hỏi người quen, để hòa cùng náo nức chợ tháng chạp chỉ để “dòm chơi” (Đi chợ dòm chơi).

    Với một cặp vợ chồng du khách cái mưa Huế hẳn rất không thích hợp, nhưng khi họ quyết đi dạo bờ sông thì gặp nhóm bạn trẻ với mấy cây guitar, trống cajon trên nền xi măng ngồi xệp đắm say thể hiện, cả khách Tây khách Nhật cũng ghé vào thưởng thức, cả dòng sông, bầu trời, làn gió… cùng đắm chìm mê ảo (Nến, bờ sông và acoustic). Cặp cụ ông cụ bà với nghề quay cước và nhẹ nhàng những lời trao đổi, bốn năm chục năm qua, một ngày cụ ông qua đời và cụ bà vẫn tiếp tục quay cước, trầm ngâm, một mình (Vòng cước, vòng đời).

    Một bà lão hơn trăm tuổi, còn tỉnh, còn biết mắc cỡ, nhưng lũ cháu vui vẻ thay nhau cõng bà đi ra tiệm gội đầu vì không thể ngồi gội mái tóc dài của mình, hình ảnh ấy làm sáng hẳn con phố nhỏ (Cõng bà đi gội đầu). Đám lân nghèo trong phố nhỏ, cận trung thu vẫn mưa, đành múa ngày, vào từng nhà, và niềm vui giản dị xóm nghèo hòa chung (Lân, chẳng đợi chị Hằng)… Rất tình cờ thử giở tập sách, bạn sẽ gặp những cảnh vậy. Mọi thứ đều ánh lên đốm sáng thấu tận một niềm vui.

    Và một phần cũng khá nhiều, Nguyễn Mỹ Nữ viết về những người thân trong gia đình. Bà chị ở Nhật vụ động đất và sóng thần, ông cậu một chân luôn đem đến niềm vui cho lũ cháu thuở khổ nghèo, người chồng thân yêu và ngón đàn tài hoa, nhất là mẹ. Mẹ trong từng góc bếp, trong từng món ăn, từng niềm vui đơn giản dòm chợ, hay làm cô giáo cho mẹ, lắng nghe từng nhịp thở cuối đời của mẹ…,tất cả đều lung linh cái thiên đường bé mọn ấy, niềm hạnh phúc giản đơn ấy.

    Thiên đường và hạnh phúc đôi khi chỉ để kể lại, tiếc nhớ và khóc. Khóc vì nhận ra, tận hưởng, khóc cay xót vì đã vụt mất nhưng cũng khóc để hạnh phúc muộn màng rằng, đã có những thiên đường như thế. Không chỉ cho riêng chị. Mà còn là lời gửi gắm, nhắn nhủ. Rằng bất kỳ ai, bất kỳ số phận nào, vẫn sẵn bên mình cái thiên đường, hạnh phúc ấy. Nếu bình tâm lắng nghe, cảm nhận.

    Có cách kể nhẩn nha, có vận dụng tối đa ngôn ngữ bình dân, vùng miền, có gom ghép dặm mắm thêm muối cho đầy câu chuyện…, nhưng tất cả đều hút vào duy nhất ánh nến thinh lặng trong đêm tự cổ xưa, cái ánh sáng của vẻ đẹp tâm hồn đơn giản nhất.

    Nến, bờ sông và acoustic đẹp vẻ đẹp ấy!

  • Nhà thơ Xuân Quỳnh: Tiểu sử và sự nghiệp với các tác phẩm để đời

    Nhà thơ Xuân Quỳnh: Tiểu sử và sự nghiệp với các tác phẩm để đời

    Xuân Quỳnh (1942-1988) là một nhà thơ nữ tiêu biểu hàng đầu của nền văn học Việt Nam hiện đại nửa cuối thế kỷ 20. Nhắc tới Xuân Quỳnh, người ta liên tưởng đến ngay những dòng thơ ngập tràn tình yêu với phong cách rất riêng. Suốt quãng đời cầm bút của mình, bà đã để lại cho đời một kho tàng nhiều tác phẩm văn học đạt tới đỉnh cao.

    Sơ lược về tiểu sử và sự nghiệp của nhà thơ Xuân Quỳnh

    Nhà thơ Xuân Quỳnh, tên khai sinh là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh. Bà sinh ngày mùng 6-10-1942, quê quán Văn Khê, Hà Đông, Hà Tây (Nay là Tp.Hà Nội).

    Xuân Quỳnh sinh ra trong một gia đình làm công chức. Mẹ bà mất từ khi Xuân Quỳnh còn nhỏ, bố do hay đi công tác và không ở nhà nên suốt quãng thời gian từ nhỏ tới lớn, nữ thi sĩ được chăm sóc và nuôi dạy bởi bà nội.

    Năm 13 tuổi, Xuân Quỳnh học tập và sinh hoạt tại Đoàn Văn công nhân dân Trung ương. Tại đây, bà được đào tạo làm nghề diễn viên múa và từng được ra nước ngoài biểu diễn nhiều lần, tham dự Đại hội thanh niên sinh viên thế giới ở Vienna (Áo) vào năm 1959.

    Sơ lược về tiểu sử và sự nghiệp của nhà thơ Xuân Quỳnh
    Sơ lược về tiểu sử và sự nghiệp của nhà thơ Xuân Quỳnh

    Xuân Quỳnh có một quãng thời gian tự học, rèn luyện viết văn, làm thơ. Nhờ vậy, năm 19 tuổi bà đã có những tác phẩm đầu tiên được đăng báo. Trong hai năm (1962-1964), bà theo học tại Trường bồi dưỡng những người viết văn trẻ khóa 1 của Hội Nhà Văn Việt Nam. Sau khi tốt nghiệp, bà làm việc tại nhiều cơ quan báo chí, đảm nhận nhiều chức vụ: Biên tập viên tại tờ Văn nghệ, biên tập viên tờ Phụ nữ Việt Nam, biên tập viên Nhà xuất bản Tác phẩm mới, hội viên và ủy viên Ban chấp hành của Hội Nhà văn Việt Nam (khóa 3).

    Năm 1973, Xuân Quỳnh kết hôn với nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Vũ. Trước đó, bà đã kết hôn lần đầu và có một con riêng với chồng cũ công tác tại Đoàn Văn công nhân dân Trung ương.

    Cuối tháng 8 năm 1988, Xuân Quỳnh, chồng Lưu Quang Vũ và con trai Lưu Quỳnh Thơ (13 tuổi) mất trong một vụ tai nạn giao thông tại thành phố Hải Dương.

    Năm 2001, cố nhà thơ Xuân Quỳnh được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật.

    Ngày 30/3/2017, bà được Chủ tịch nước Trần Đại Quang ký quyết định truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật cho hai tập thơ là “Bầu trời trong quả trứng” và “Lời ru mặt đất”.

    Chủ đề trong thơ Xuân Quỳnh: Dung dị với nhiều cung bậc cảm xúc đời thường

    Chủ đề trong thơ của Xuân Quỳnh khá đa dạng từ: Những kỷ niệm tuổi thơ, tình yêu đôi lứa, tình cảm gia đình, hiện thực xã hội, các sự kiện trong đời sống… Tuy nhiên “điểm gặp gỡ” trong các chủ đề là tính cách hướng nội và nội tâm của nhà thơ.

    Mặc dù vậy, đọc tác phẩm của Xuân Quỳnh người ta lại không thấy sự xa rời thực tế đời sống. Từng câu, từng chữ trong thơ Xuân Quỳnh gần gũi tựa như hơi thở và nó dường như là “tạc lại” những gì bà đã sống và trải qua vậy. Có được điều này, nhiều nhà phê bình văn học cho rằng chính là do bản thân nữ thi sĩ. Bà được nhận xét là người phụ nữ giàu nội lực, sống hết mình, không ngại bộc lộ cảm xúc bản thân từ hạnh phúc, say đắm, cho đến những lúc suy tư hay khổ đau. Bên cạnh đó, chính hoàn cảnh đời sống những năm đất nước còn chiến tranh, bom đạn chia cắt, nghèo đói, phải bươn chải lo toan nhiều điều đã tạo nên “chất riêng” của một người phụ nữ vừa làm vợ, vừa làm mẹ mà lại vừa làm thơ.

     

    Chủ đề trong thơ Xuân Quỳnh: Dung dị với nhiều cung bậc cảm xúc đời thường
    Chủ đề trong thơ Xuân Quỳnh: Dung dị với nhiều cung bậc cảm xúc đời thường

    Đây cũng chính là sự khác biệt của Xuân Quỳnh so với các nhà thơ cùng thời. Trong khi các nhà thơ khác phản ánh sự kiện đời sống, gắn liền tâm trạng mình với tâm trạng chung của xã hội, của đất nước thì Xuân Quỳnh lại khác. Vẫn là thơ phản ánh hiện thực nhưng nó lại đặc quánh tâm trạng, nảy sinh từ chính nội tâm và đời sống của nhà thơ. Điều này bộc lộ rõ nhất là trong 20 bài thơ viết về chiến tranh của bà nhưng người ta vẫn thấy đâu đó là lời thủ thỉ, tâm tình của một trái tim đang thổn thức vì yêu.

    Đọc thơ Xuân Quỳnh, người ta luôn thấy dạt dào cảm xúc và năng lượng trong từng câu chữ, dù ở cương vị nào, hoàn cảnh nào: Người vợ tâm sự với chồng, mẹ thủ thỉ với con yêu, người con đối với cha mẹ hay là những lời tự nói với chính bản thân mình. Cũng chính nhờ vậy mà nhiều người như tìm thấy chính mình trong thơ bà, từ đó nảy sinh lòng yêu thích, mến mộ đối với nhà thơ.

    Tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh: da diết, cháy bỏng, nồng nàn

    Qua nhận xét từ chính những người gần gũi nhất với nhà thơ Xuân Quỳnh, ta thêm hiểu về bà. PGS.TS Lưu Khánh Thơ (em chồng Xuân Quỳnh) từng chia sẻ: “Đọc tác phẩm của Xuân Quỳnh có thể hình dung được cuộc sống của chị như thế nào, chị đã yêu thương hay day dứt những gì? Chị đã dùng sự chân thực để làm điểm tựa cho những cảm xúc và sáng tạo của mình, từ đó thì các sáng tác của chị chính là đời sống, là những tâm trạng thật, là vui buồn trong đời sống… Có lẽ, chưa có một người phụ nữ làm thơ nào đã nói về tình yêu bằng những lời thật sự cháy bỏng , tha thiết và nồng nàn đến như thế”.

    Bởi vậy, nhà thơ Xuân Quỳnh mới để lại cho đời những dòng thơ tha thiết yêu đương như:

    – “Con sóng dưới lòng sâu

    Con sóng trên mặt nước

    Ôi con sóng nhớ bờ

    Ngày đêm không ngủ được

    Lòng em nhớ đến anh

    Cả trong mơ còn thức

    ….

    Làm sao được tan ra

    Thành trăm con sóng nhỏ

    Giữa biển lớn tình yêu

    Để ngàn năm còn vỗ.”

    (Sóng)

    – “Em trở về đúng nghĩa trái tim em

    Là máu thịt, đời thường ai chẳng có

    Cũng ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa

    Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi.”

    (Tự hát)

    Nhắc đến chủ đề tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh, nhà phê bình văn học Lê Thành Nghị nhận xét: “Thơ Xuân Quỳnh chất chứa tình yêu thương con người. Nó như một “bản năng gốc” để tạo nên chất thơ đậm nét ở chị. Xuân Quỳnh làm thơ dễ dàng, như một lời tự hát ấp ủ từ đâu đó, ngân nga mỗi khi có dịp, câu thơ trôi chảy kể cả những khi diễn đạt những điều tế nhị, sâu kín. Những tình cảm được biểu hiện tự nhiên, chân thực, một cách đầy chất thơ”.

    Bởi thế, ta mới bắt gặp một Xuân Quỳnh khát khao yêu thương cháy bỏng, say đắm trong tình yêu trong “Sóng”, “Thuyền và biển”. Nhưng ta cũng bắt gặp một Xuân Quỳnh khác với nỗi lo âu, băn khoăn, trăn trở, suy tư về tình yêu, hạnh phúc lứa đôi tưởng rằng bền vững nhưng nhiều khi cũng quá đỗi mong manh:

    Cửa kính mờ trong mưa đẫm nước

    Em chờ anh, anh có về không?” –

    (Ngày mai trời còn mưa)

    – “Em lo âu trước xa tắp đường mình

    Trái tim đập những điều không thể nói”

    (Tự hát)

     “Em đâu dám nghĩ là vĩnh viễn

     Hôm nay yêu, mai có thể xa rồi” 

    (Nói cùng anh)

    – “Những cánh chuồn mỏng manh như tình yêu” 

    (Chuồn chuồn báo bão)

    – “Lời yêu mỏng mảnh như màu khói

     Ai biết lòng anh có đổi thay?”

    (Hoa cỏ may)

    Nhà thơ Xuân Quỳnh viết cho trẻ em

    Không chỉ nổi tiếng với thơ tình, Xuân Quỳnh còn làm thơ, viết văn cho trẻ em. Các tác phẩm nổi tiếng trong đề tài này gồm có “Cây trong phố, Chờ trăng”, “Bầu trời trong quả trứng” và truyện thơ “Lưu Nguyễn”.

    Hầu hết các sáng tác này đều được viết khi nữ thi sĩ đã làm mẹ nên câu từ, ý tứ rất am hiểu tâm lý trẻ thơ, toát lên niềm vui, tình yêu trong sáng, hồn nhiên.

    Thế mà nắng cũng sợ rét

    Nắng chui vào chăn cùng em

    Các bạn để ý mà xem

    Trong chăn bao nhiêu là nắng

    Mà nắng cũng hay làm nũng

    ở trong lòng mẹ rất nhiều

    Mỗi lần ôm em, mẹ yêu

    Em thấy ấm ơi là ấm.”

    (Mùa đông nắng ở đâu?)

    Nhiều tác phẩm đã và đang được chọn in và giảng dạy trong chương trình văn học Trung học phổ thông như: Chuyện cổ tích về loài người, tiếng gà trưa…

    Một số tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Xuân Quỳnh

    • Hoa dọc chiến hào (1968)
    • Gió Lào, cát trắng (1974)
    • Sân ga chiều em đi (1984)
    • Tự hát (1984)
    • Thơ Xuân Quỳnh (1992, 1994)
    • Bầu trời trong quả trứng (1982)
    • Bến tàu trong thành phố (1984)
    • Truyện Lưu Nguyễn (1985)

    Qua các tác phẩm nhà thơ Xuân Quỳnh để lại cho đời, có thể khẳng định rằng bà là một trong những cây bút tài năng nhất của văn học Việt Nam hiện đại. Những rung động trong tình yêu, suy tư về cuộc sống của Xuân Quỳnh đã, đang và sẽ mãi lưu giữ trong lòng nhiều thế hệ độc giả yêu quý bà.

  • Nhà thơ Nguyễn Khuyến: Con người, tư tưởng & sự nghiệp văn học

    Nhà thơ Nguyễn Khuyến: Con người, tư tưởng & sự nghiệp văn học

    Nhà thơ Nguyễn Khuyến (1835 – 1909) là một trong những tác giả xuất sắc nhất trong nền văn học Việt Nam. Nhắc đến ông, người ta sẽ hình dung đến ngay bộ ba bài thơ về mùa thu gồm “Thu Vịnh, Thu Ẩm, Thu Điếu”. Hôm nay, hãy cùng tìm hiểu sâu hơn về tiểu sử và sự nghiệp của Nguyễn Khuyến trong bài viết sau!

    Tam Nguyên Yên Đỗ “Nguyễn Khuyến”: Người tài sinh nhầm thời

    Ít người biết rằng tên gọi Nguyễn Khuyến có hàm ý rằng “cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa”. Đây là tên gọi thứ hai, được chính nhà thơ đổi sau này trong thời gian ông đang theo học tại trường Quốc Tử Giám, sau khi trượt kỳ thi Hội.

    Tên thật của nhà thơ Nguyễn Khuyến là Nguyễn Thắng. Ông được sinh ra tại quê ngoại tại làng Văn Khê, xã Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Hà Nam (nay thuộc tỉnh Nam Định). Quê nội Nguyễn Khuyến thuộc làng Vị Hạ, Yên Đổ (nay là xã Trung Lương, Bình Lục, Hà Nam).

    Nguyễn Khuyến sinh ra trong một gia đình nhà nho Nghèo. Cha ông là cụ Nguyễn Tông Khởi, từng đậu 3 khóa tú tài, làm nghề dạy học. Mẹ ông là cụ Trần Thị Thoan, con gái của Trần Công Trạc cũng từng đỗ tú tài dưới thời Lê Mạc.

    Tam Nguyên Yên Đỗ “Nguyễn Khuyến”: Người tài sinh nhầm thời
    Tam Nguyên Yên Đỗ “Nguyễn Khuyến”: Người tài sinh nhầm thời

    Ngay từ nhỏ, Nguyễn Khuyến đã nổi tiếng là người thông minh, ham học. Năm 17 tuổi, Nguyễn Khuyến lấy vợ và tham dự kỳ thi Hương cùng cha nhưng bị trượt. Sau đó thì cha ông lâm bệnh và qua đời. Hoàn cảnh cơ cực đã buộc Nguyễn Khuyến phải đi dạy học để kiếm sống, nuôi mẹ. Sau có cụ nghè Vũ Văn Lý người vì thương tình cảnh của chàng nho sinh nghèo Nguyễn Khuyến mà cưu mang và cho tiếp tục ăn học.

    Năm 1864, Nguyễn Khuyến đỗ đầu kỳ thi Hương. Một năm sau ông vào kinh để thi hội nhưng không đậu nên quyết định đổi tên của mình từ Thắng thành Khuyến với ý động viên, khuyến khích mình cần cố gắng hơn. Song song với đó, Nguyễn Khuyến vào Huế rồi theo học tại trường Quốc Tử Giám. Sau sáu năm dùi mài kinh sử (1871), Nguyễn Khuyến thi lại lần hai thì đỗ cả Hội nguyên lẫn Đình Nguyên. Vì đỗ đầu cả ba kỳ thi nên Nguyễn Khuyến được vua Tự Đức ban cho cờ biểu và hai chữ Tam Nguyên. Về sau, người đời mới gọi ông là Tam nguyên Yên Đỗ (tức: người đỗ đứng đầu của ba kỳ thi của làng Yên Đỗ).

    Nguyễn Khuyến ra làm quan tổng cộng là hơn 10 năm. Ông từng làm trong nội các ở Huế, Đốc học tại Thanh Hóa, Án Sát tại Nghệ An, Bố chính tại Quảng Ngãi…  dù ở chức vụ nào ông cũng nổi tiếng là một vị quan thanh liêm, chính trực.

    Là người sinh ra và lớn lên trong môi trường nho học nên Nguyễn Khuyến luôn mong muốn nếu làm quan sẽ thực hiện giấc mộng trị quốc bình thiên hạ. Thế nhưng thời cuộc đã không cho ông làm được điều đó.

    Mang tiếng làm quan nhưng lại trong giai đoạn triều Nguyễn ở giai đoạn lụi tàn, thực dân Pháp đánh chiếm Nam Kỳ rồi tiến đánh Hà Nội và tấn công kinh thành Huế (1885). Triều đình nhà Nguyễn thất thủ và ký hàng ước Quý Mùi (1883), phong trào Cần Vương kêu gọi nhân dân đấu tranh nhưng bị đập tan dưới tay thực dân. Giữa thời nước mất, nhà tan mà không thể làm được gì đã khiến Nguyễn Khuyến rất đau đớn, chua xót. Vì vậy, ông cáo quan về quê nhà ở ẩn.

    Trong bối cảnh thực dân Pháp hoành hành, Nguyễn Khuyến vẫn giữ một lòng yêu nước, không hợp tác với giặc. Nguyễn Khuyến sống một cuộc đời trong sạch, không tư lợi cho đến cuối đời.

    Sự nghiệp văn học của nhà thơ Nguyễn Khuyến

    Nhiều ý kiến cho rằng Nguyễn Khuyến được xem là một nhân cách Việt Nam tiêu biểu giữa thời cuộc loạn lạc nước mất nhà tan. Nhận định này xuất phát từ chính cốt cách và thái độ sống của ông: Yêu nước trước sau như một, đau với nỗi đau của nhân dân, buồn với nỗi buồn của nhân dân, day dứt trước cảnh đất nước bị thực dân dày xéo, chà đạp… Những tư tưởng này đã được thể hiện rất rõ trong các tác phẩm của Nguyễn Khuyến để lại cho nhân thế.

    Kho tàng tác phẩm văn học Nguyễn Khuyến để lại hiện thống kê còn khoảng hơn 400 bài gồm nhiều thể loại từ thơ, văn cho đến câu đối, văn tế… Trong đó, các tác phẩm tiêu biểu nhất phải kể đến là Yên Đổ thi tập, Quế Sơn thi tập, Bách liêu thi văn tập, Cẩm Ngữ.

    Riêng Quế Sơn thi tập đã bao gồm hơn 200 bài thơ được viết bằng chữ Hán và hơn 100 bài thơ được viết bằng chữ Nôm, thể thơ sử dụng vô cùng đa dạng. Dù viết thơ bằng chữ Hán hay chữ Nôm thì Nguyễn Khuyến đều rất thành công.

    Tư tưởng trong các sáng tác của Nguyễn Khuyến

    Các tác phẩm của Nguyễn Khuyến đều xoay quanh 3 chủ đề chính là: Tâm sự, bộc bạch của chính nhà thơ; Con người, cuộc sống và cảnh vật ở làng quê vùng chiêm trũng Bắc Bộ; Tỏ thái độ khinh bỉ, chế giễu những kẻ tham lam, ích kỷ, thừa nước đục thả câu giữa cảnh nước mất nhà tan.

    Tư tưởng trong các sáng tác của Nguyễn Khuyến
    Tư tưởng trong các sáng tác của Nguyễn Khuyến

    Tâm sự, bộc bạch của Nguyễn Khuyến

    Phần lớn các sáng tác của nhà thơ Nguyễn Khuyến được viết sau khi ông từ quan về quê ở ẩn. Vì thế, trong nhiều tác phẩm người ta thấy cái buồn trong thơ ông. Đó là nỗi buồn không thể thực hiện nghĩa vụ trí quân trạch dân

    “Ơn vua chưa chút báo đền

    Cúi trông hổ đất, ngửa lên thẹn trời”

    (Di chúc)

    Đó cũng là nỗi buồn khi thấy bọn cơ hội tiếp tay cho giặc để bán nước cầu vinh. Nỗi buồn này được Nguyễn Khuyến gửi vào tiếng cuốc kêu

    “Năm canh máu chảy đêm hè vắng

    Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ

    Có phải tiếc xuân mà đứng gọi

    Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ”.

    (Quốc kêu cảm hứng)

    Trong thơ Nguyễn Khuyến, người ta cũng thấy ông tự cười mình, tự chế giễu sự bất lực của bản thân trước thời cuộc bằng những câu thơ rất chua chát:

    “ Bỏ chức há không bạn bè ở lại

    Về nhà vị tất con cháu đã khen thay?”

    (Cảm tác)

    Con người, cảnh vật và cuộc sống ở làng quê vùng chiêm trũng Bắc Bộ

    Tuổi thơ nghèo khó, gắn bó với đời sống thôn quê từ những ngày thơ bé nên hơn ai hết Nguyễn Khuyến hiểu và thấm được nỗi cơ cực vất vả của người dân nghèo sống nơi miền đồng chiêm trũng.

    Sau khi từ quan về quê, ông sống một cuộc đời như một lão nông thực thụ, chan hòa tình thân với mọi người ở thôn quê. Đây chính là lý do vì sao trong rất nhiều bài thơ của Nguyễn Khuyến người ta bắt gặp hình ảnh người nông dân nghèo lam lũ, cực khổ, túng thiếu quanh năm:

    “Sớm trưa dưa muối cho qua bữa

    Chợ búa, trầu cau chẳng dám mua”.

    (Chốn quê)

    Đó là nỗi lo của người nông dân trước mỗi mùa lụt lội:

    “Năm nay cày cấy vẫn chân thua

    Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa”

    (Chốn quê)

    Hay

    “Dở trời mưa bụi còn hơi rét

    Nếm rượu tường đền được mấy ông?

    Hàng quán người về nghe xao xác

    Nợ nần năm hết hỏi lung tung”

    (Chợ Đồng)

    Hay

    “Quai Mễ Thanh Liêm đã vỡ rồi

    Vùng ta thôi cũng lụt mà thôi”

    (Nước lụt Hà Nam)

    Người ta thường ví Nguyễn Khuyến là một nhà thơ của nông thôn thật chẳng sai. Bởi lẽ, khó có một ai đưa cảnh thôn quê vào thơ có hồn như ông:

    “Chuông trưa vẳng tiếng người không biết

    Trâu thả sườn non ngủ gốc cây”

    (Nhớ cảnh chùa Đọi)

    Hay

    “Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt

    Làn ao lóng lánh bóng trăng loe”.

    (Thu ẩm)

    Chế giễu, đả kích thói hư tật xấu của những kẻ tham lam, ích kỷ, tư lợi

    Vốn là người ngay thẳng, chính trực nên khi nhìn thấy cảnh những kẻ làm quan mà tham lam, chỉ nghĩ sao tư lợi cho mình thật nhiều, Nguyễn Khuyến đã dùng thơ văn để thể hiện sự khinh bỉ, mỉa mai:

    “Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai,

    Cũng gọi ông nghè có kém ai.

    Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,

    Nét son điểm rõ mặt văn khôi.

    Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ ?

    Cái giá khoa danh ấy mới hời

    Ghế tréo lọng xanh ngồi bảnh chọe,

    Nghĩ rằng đồ thật hoá đồ chơi!”

    (Tiến Sĩ Giấy)

    Hay

    “Ông đứng làm chi đó hỡi ông?

    Trơ trơ như đá, vững như đồng.

    Đêm ngày gìn giữ cho ai đó,

    Non nước đầy vơi có biết không?”

    (Ông Phỗng đá)

    Ngòi bút Nguyễn Khuyến chua xót khi châm biếm, đả kích thói lố lăng, rởm đời mà bọn thực dân vẽ ra

    “Khen ai khéo vẽ trò vui thế

    Vui thể bao nhiêu, nhục bấy nhiêu”

    (Hội Tây)

    Có thể thấy, dù là ở mảng đề tài nào ta cũng thấy ngôn ngữ trong thơ Nguyễn Khuyến được sử dụng rất sinh động, giản dị nhưng cũng không kém phần tinh tế. Ngoài ra, Nguyễn Khuyến cũng cực kỳ thành công trong ứng dụng bút pháp nghệ thuật, sử dụng điển tích điển cố từ ca dao tục ngữ trong các tác phẩm của mình.

    Đọc, tìm hiểu, suy ngẫm về cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ Nguyễn Khuyến, ta càng thấy trân quý ông – một nhà thơ có tài, có đức với tấm lòng yêu nước, thương dân vô hạn.

  • Nhà văn Thạch Lam: Người nghệ sĩ tài hoa, giàu lòng trắc ẩn

    Nhà văn Thạch Lam: Người nghệ sĩ tài hoa, giàu lòng trắc ẩn

    Nhà văn Thạch Lam tên khai sinh là Nguyễn Tường Vinh. Ông là một trong những cây bút xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại, giai đoạn 1930-1945. Nhắc đến Thạch Lam, người ta nhớ ngay đến một giọng văn êm ái, nhẹ nhàng, gần gũi với đời sống hiện thực và có một chút man mát buồn. Hãy cùng tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn tài hoa này trong bài viết sau!

    Vài nét về tiểu sử, cuộc đời của nhà văn Thạch Lam

    Thạch Lam sinh ngày 7/7/1910, trong một gia đình công chức gốc quan lại tại Hà Nội. Cha ông là Nguyễn Tường Nhu làm thông phán Tòa sứ, mẹ ông là bà Lê Thị Sâm con gái của Lê Quang Thuật (người gốc Huế, làm quan võ tại huyện Cẩm Giàng).

     

    Chân dung nhà văn Thạch Lam
    Chân dung nhà văn Thạch Lam

    Thạch Lam là con thứ 6 trong gia đình có cả thảy 7 anh chị em. Tuy sinh ra tại Hà Nội nhưng tuổi thơ của Thạch Lam lại gắn bó với phố huyện Cẩm Giàng (Hải Dương) – quê ngoại của nhà văn. Sở dĩ là do cha ông mắc bạo bệnh mất sớm, khi Thạch Lam mới chỉ có 7 tuổi. Để nuôi mẹ chồng và đàn con thơ, mẹ ông đành phải đưa cả gia đình về quê ngoại sinh sống. Tại Đây, Thạch Lam được cho theo học tại Trường Tiểu học Hải Dương (nay đổi tên là trường Tiểu học Tô Hiệu).

    Ít lâu sau, khi người anh cả của Thạch Lam là Nguyễn Tường Thụy học xong và về Thái Bình dạy học thì cả gia đình Thạch Lam lại chuyển về Thái Bình sinh sống. Nhưng vì cuộc sống túng thiếu, làm quần quật vẫn không đủ nuôi mấy miệng ăn nên mẹ ông đã quyết định đưa cả nhà quay về Hà Nội.

    Chính vì chuyển nơi ở liên tục nên mãi đến năm 14 tuổi thì Thạch Lam mới học xong tiểu học. Để được thi lấy bằng Thành Chung, sớm phụ giúp mẹ nên ông cần khai tăng tuổi và làm lại giấy khai sinh. Cũng chính từ đó, cái tên Nguyễn Tường Vinh do cha mẹ đặt cho được đổi thành Nguyễn Tường lân. Sau, khi viết văn, làm báo ông lấy bút danh là Thạch Lam.

    Thạch Lam đậu vào trường Cao Đẳng Canh Nông (Hà Nội), nhưng sau đó ông chuyển vào học Tú tài tại trường Trung học Albert Sarraut. Tại đây, sau khi đậu tú tài ở phần thứ nhất thì ông thôi học và bắt đầu nghiệp viết lách của mình với hai anh trai.

    Năm Thạch Lam 25 tuổi, ông bí mật kết hôn với bà Nguyễn Thị Sáu và sống trong căn nhà nhỏ của chị gái tại đầu làng Yên Phụ, ven hồ Tây. Thạch Lam có ba người con (hai trai, một gái), trong đó người con trai út là Nguyễn Tường Giang sau này đã nối gót văn chương của cha.

    Thạch Lam viết hăng hái nhưng tiền nhuận bút của ông không đủ để nuôi gia đình. Chính vì thế, kinh tế trong nhà cũng là do người vợ tảo tần của ông trợ giúp cật lực. Khoảng năm 1940, Thạch Lam phát hiện mình mắc bệnh lao phổi. Tháng 6/1942, sau hai năm khổ sở vì bệnh tật hành hạ, ông qua đời khi vừa mới 32 tuổi, để lại vợ và 3 con nhỏ cùng sự nghiệp đang độ rực rỡ nhất.

    Sự nghiệp văn chương của nhà văn Thạch Lam

    Thạch Lam bắt đầu sự nghiệp cầm bút của mình từ năm 1932, khi ông ra nhập nhóm Tự lực văn đoàn do anh trai là Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh) sáng lập. Song song với đó, ông cũng làm báo, đảm nhận việc biên tập cho hai từ Phong Hóa và Ngày Nay. Năm 1935, Thạch Lam được bầu là chủ bút của tờ Ngày Nay.

    Về phong cách văn chương, Thạch Lam được đánh giá là có phong cách viết riêng biệt, khác hẳn so với những thành viên khác trong Tự lực văn đoàn. Theo đó, nếu như các thành viên khác đi theo lối hành văn lãng mạn, bay bổng, thoát ly hiện thực, có phần xa rời thực tế khốc liệt và tiếng nói đấu tranh giai cấp khá yếu ớt, mờ nhạt. Thì với Thạch Lam, ông sử dụng một cách hành văn giản dị, tinh tế, lãng mạn trong trẻo nhưng không xa rời thực tế đời sống. Chính điều này đã giúp cho Thạch Lam có một chỗ đứng riêng và được coi là một trong những nhà văn có đóng góp rất lớn về ngôn ngữ nghệ thuật của nền văn học nước nhà.

    Một số tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Thạch Lam
    Một số tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Thạch Lam

    Thời gian Thạch Lam cầm bút chỉ vỏn vẹn 10 năm nên số lượng tác phẩm ông để lại không nhiều. Tuy nhiên, những giá trị văn học truyền tải trong các tác phẩm của ông đến nay vẫn được đánh giá rất cao.

    “Gia tài” tác phẩm của Thạch Lam thống kê chỉ có 3 tập truyện ngắn là: Gió đầu mùa (1937), Nắng trong vườn (1938) và Sợi tóc (1941). Ngoài ra, ông có một truyện dài là Ngày mới (1939), một tiểu luận Theo dòng (1941), một tập tùy bút rất nổi tiếng là Hà Nội băm sáu phố phường (1943), cùng một số truyện ngắn viết cho thiếu nhi được in trong Quyển sách Hạt ngọc (1940). Nhưng đọc Thạch Lam, người ta không thể lẫn đi đâu được cái chất hành văn chậm rãi, điểm tĩnh và chân thực tuyệt đối.

    Quan điểm sáng tác của nhà văn Thạch Lam: Văn chương không phải thoát ly hay quên lãng sự thực

    Viết trong tựa đề của tập truyện ngắn đầu tay Gió đầu mùa, Thạch Lam đã bộc bạch quan điểm của mình trong nghề viết như sau:“Đối với tôi, văn chương không phải đem đến cho người đọc sự thoát ly hay sự quên; trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn.”

    Chính quan điểm này đã “dẫn đường chỉ lối” cho các tác phẩm của ông không thoát li khỏi hiện thực u tối của xã hội còn đương rối ren, nhưng vẫn thấy được những điều đẹp đẽ lấp lánh của lòng người và sự lạc quan vào cuộc sống.

     

    Một trong những bìa tác phẩm Gió đầu mùa của nhà văn Thạch Lam
    Một trong những bìa tác phẩm Gió đầu mùa của nhà văn Thạch Lam

    Rất nhiều nhà văn, nhà phê bình đã dành cho Thạch Lam nhiều lời khen và sự nể trọng tuyệt đối.

    Nhà văn Vũ Ngọc Phan nhận xét: “Thạch Lam có một ngòi bút lặng lẽ, điểm tĩnh vô cùng, ngòi bút chuyên tả tỉ mỉ những cái rất nhỏ và rất đẹp. Phải là người giàu tình cảm lắm mới viết được như vậy”.

    Hay như Nguyễn Tuân nhận xét: “Thạch Lam đã làm cho tiếng Việt gọn ghẽ đi, co duỗi thêm, mềm mại và tươi tắn hơn…

    Thật vậy, qua rất nhiều tác phẩm, người ta luôn thấy đâu đó lăng kính cực kỳ tinh tế của nhà văn Thạch Lam cho dù hiện thực có đang lầm lũi, tăm tối, khắc nghiệt đến chừng nào. Đọc “Hai đứa trẻ”, bạn đọc sẽ thấy ngay điều đó.

    Rành rành là nhắc đến cái nghèo đói, cái buồn chán, hiu quạnh đến thảm thương nơi phố huyện nhưng qua ngòi bút của Thạch Lam, người ta vẫn nhìn ra những điều đẹp đẽ bình dị:“Tiếng trống thu không trên cái chợ huyện nhỏ; từng tiếng một vang xa để gọi buổi chiều. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rơ rệt trên nền trời. Chiều, chiều rồi. Một buổi chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”.

    Những nhân vật với kiếp sống nghèo khổ, cam chịu được khắc họa qua ngòi bút của Thạch Lam hiện lên chân thực, nhân văn: “Vợ chồng bác xẩm góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu bần bật trong yên lặng. Thằng con bò ra đất, ngoài manh chiếu, nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát bên đường. Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”.

    Hay như sự mô tả tỉ mỉ đến tài tình những diễn biến nội tâm phức tạp của con người trước ranh giới tốt – xấu vốn rất mong manh khi lòng tham nổi lên trong tác phẩm Sợi tóc: “Tôi ngạc nhiên tự hỏi sao mình hãy còn là người lương thiện,… Cái gì đã giữ tôi lại? Tôi không biết… có lẽ chỉ có lời nói không đâu, một cử chỉ nào đấy, về phía này hay phía kia, đã khiến tôi có ăn cắp hay không ăn cắp. Chỉ một sợi tóc nhỏ, một chút gì đó, chia địa giới hai bên…”.

    Dù phác họa một bức tranh nào của đời sống, thân phận nào trong xã hội thì chưa bao giờ người ta thấy một Thạch Lam cẩu thả trong câu chữ. Hơn thế, qua tác phẩm nào ta cũng thấy Thạch Lam kín đáo cài cắm một niềm trăn trở: Làm sao để thức tỉnh nhân cách đẹp đẽ vốn có trong mỗi người?

    Thạch Lam viết về Hà Nội với tình yêu và sự tường tận đến không ngờ

    Qua tác phẩm “Hà Nội băm sáu phố phường”, người ta nhìn thấy một Thạch Lam rất thanh lịch, hào hoa, lãng tử đúng khí chất của người Hà Thành. Không chọn đề tài “đao to búa lớn”, ông chọn viết về ẩm thực trong đời sống của người Hà Nội. Nhưng chỉ bằng ấy thôi, Thạch Lam đã khiến bao thế hệ độc giả “siêu lòng”. Với độc giả lớn tuổi, đọc tác phẩm này khiến người ta nhớ thương về “hồn cốt” của một Hà Nội xưa cũ. Với người trẻ, chắc chắn không ít người ao ước được một lần sống lại những năm tháng xưa cũ, hoặc cố lùng sục cho ra phong vị xưa của người Hà thành trong chính cuộc sống hiện đại ngày nay.

    Chính nhà văn Khái Hưng (một cây bút nổi tiếng của Tự lực văn đoàn) cũng từng thừa nhận: “Thạch Lam thực sự là một nghệ sĩ, một thi sĩ về khoa thẩm vị”. Hãy coi xem ngòi bút của Thạch Lam miêu tả món ăn tinh tế đến nhường nào để có thể nhận được nhiều mỹ từ ngợi khen đến thế:

    Khi ông tả cốm, vốn là thức quà dân dã của người Hà Nội nhưng qua ngòi bút lại thành một thứ đặc sản vô cùng tinh tế: “Cốm không phải thức quà của người vội; ăn cốm phải ăn từng chút ít, thong thả và ngẫm nghĩ. Lúc bấy giờ ta mới thấy thu lại cả trong hương vị ấy, cái mùi thơm phức của lúa mới, của hoa cỏ dại ven bờ; trong màu xanh của cốm, cái tươi mát của lá non, và trong chất ngọt của cốm, cái dịu dàng, thanh đạm của loài thảo mộc. Thêm vào cái mùi hơi ngát của lá sen già, ướp lấy từng hạt cốm một, còn giữ lại cái ấm áp của những ngày mùa hạ trên hồ”.

    Rồi khi ông nhắc đến phở, chắc nhiều người phải cồn cào, suýt xoa: “Nếu là gánh phở ngon – cả Hà Nội không có đâu làm nhiều – thì nước dùng trong và ngọt, bánh dẻo mà không nát; thịt mỡ gàu dòn chứ không dai, chanh, ớt, với hành tây đủ cả…”.

    Và cả bún ốc với lối quan sát tỉ mỉ, tài tình: “Có ai buổi trưa vắng hay buổi chiều, đêm khuya, đi qua nhà các cô đào, và các chị em thanh lâu, thấy họ ăn cái quà ấy một cách chăm chú và tha thiết đến thế không? Nước ốc chua làm nhăn các nét mặt tàn phấn và mệt lả, miếng ớt cay làm xoa xuýt những cặp môi héo hắt và khiến đôi khi rỏ những giọt lệ thật thà hơn cả những giọt lệ tình”…

    Ngoài nhắc tới những thức quà ngon, cái tình, cái tứ khéo léo của người Hà Nội xưa, Thạch Lam vẫn chẳng quên đề cập đến những thân phận người. Rằng Hà Nội không phải chỉ có phồn hoa đô hội, mà đâu đó còn là nỗi lo toan, vất vả mưu sinh của nhiều mảnh đời cơ cực. Phải yêu và hiểu Hà Nội đến thế nào thì mới viết được những câu văn đầy hình tượng, giàu cảm xúc như thế?

    Kết:

    Qua một vài nhắc nhớ khái quát về tác phẩm, con người, ta thêm hiểu về nhà văn Thạch Lam và thấy trân trọng hơn một người nghệ sĩ tài hoa rất nhân văn. Ông xứng đáng là một trong những tác giả tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại.