Blog

  • Nhà văn Đoàn Giỏi: Tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác văn học

    Nhà văn Đoàn Giỏi: Tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác văn học

    Đất rừng Phương Nam là sáng tác nổi tiếng và tiêu biểu nhất của nhà văn Đoàn Giỏi. Không chỉ được dịch và xuất bản ra nhiều thứ tiếng, tác phẩm này còn được chuyển thể thành phim. Để có thể hiểu hơn về nhà văn Đoàn Giỏi cũng như sự nghiệp sáng tác văn học nói chung và tác phẩm Đất rừng phương Nam nói riêng, mời bạn hãy cùng chúng tôi dõi theo ngay bài viết dưới đây!

    Đôi nét tiểu sử nhà văn Đoàn Giỏi

    Nhà văn Đoàn Giỏi, tên khai sinh là Đoàn Văn Giỏi (17/05/1925 – 02/04/1989). Ông còn được biết đến với các bút danh khác như: Nguyễn Hoài, Huyền Tư, Nguyễn Phú Lễ. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình giàu truyền thống yêu nước tại Thị xã Mỹ Tho, tỉnh Mỹ Tho, nay đổi thành xã Tân Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang.

     

    Đôi nét tiểu sử nhà văn Đoàn Giỏi
    Đôi nét tiểu sử nhà văn Đoàn Giỏi

    Vào năm 1939, sau khi hoàn thành chương trình học ở bậc tiểu học, Đoàn Giỏi đã lên Sài Gòn, tiếp tục theo học trung học. Vốn là một con người có niềm say mê mãnh liệt với hội họa, ông đã giấu gia đình để thi vào Trường Mỹ thuật Gia Định. Tuy nhiên, vì sự phản đối của gia đình, mà sau một năm theo học, ông đã buộc phải dừng lại việc học. Gặp nhiều cản trở trong lĩnh vực hội họa, nhà văn Đoàn Giỏi đã chuyển hướng sang theo đuổi sự nghiệp văn chương.

    Nhớ cố hương (1943) là tác phẩm truyện ngắn đầu tay thành công của ông. Trải qua quá trình xét duyệt cũng như chọn lọc kỹ lưỡng của nhà văn Hồ Biểu Chánh, tác phẩm Nhớ cố hương đã được đăng tải trên số xuân của Nam Kỳ Tuần Báo.

    Tới năm 1945, thời điểm Cách mạng tháng 8 nổ ra, nhà văn Đoàn Giỏi đã tạm dừng lại sự nghiệp văn chương của mình để trở về quê hương tham gia kháng chiến, đảm nhiệm vị trí cán bộ thông tin của xã Tân Hiệp. Đến năm 1947, ông tiếp tục được trao nhiệm vụ làm công an xã và phụ trách 10 xã của huyện Châu Thành. Vào năm 1948, Đoàn Giỏi được giữ chức trưởng trinh sát công an huyện và cũng chính thức trở thành con người Cộng sản.

    Năm 1949, Đoàn Giỏi được điều động sang làm Phó ty tuyên truyền tỉnh Mỹ Tho và phụ trách mảng văn nghệ. Đồng thời, cũng làm chủ bút cho báo Tiền Phong – Cơ quan Mặt trận Việt Minh tỉnh Mỹ Tho. Đến năm 1950, ông tiếp tục được giao chức vụ Phó trưởng thông tin Rạch Giá. Năm 1951, Đoàn Giỏi chính thức trở thành ủy viên Thường vụ Ban chấp hành hội văn nghệ Nam Bộ và Phó phòng văn nghệ Sở thông tin Nam Bộ.

    Sau thành công của chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, ông được tập kết ra ngoài miền Bắc và làm việc tại Đài tiếng nói Việt Nam. Sau thời gian đó, ông lại tiếp tục chuyển sang công tác tại Hội nhà văn Việt Nam.

    Suốt những năm tháng sinh sống và làm việc ngoài Bắc, Đoàn Giỏi cũng đã dành phần nhiều thời gian và sự tâm huyết của mình cho sự nghiệp văn chương. Phần lớn các tác phẩm ông cho ra đời đều hướng tới con người và mảnh đất Nam Bộ.

    Năm 1975, khi miền Nam giải phóng, đất nước được thống nhất. Nhà văn Đoàn Giỏi quay trở về Sài Gòn sinh sống và giữ chức vụ Ủy viên Ban chấp hành Hội nhà văn thành phố Hồ Chí Minh.

    Ngày 2/4/1989, nhà văn Đoàn Giỏi ra đi trong sự tiếc thương của gia đình, bạn bè và đồng nghiệp vì chứng bệnh hiểm nghèo.

    Sự nghiệp và những tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Đoàn Giỏi

    Sự nghiệp sáng tác của nhà văn Đoàn Giỏi

    Bắt đầu sự nghiệp sáng tác văn chương với tác phẩm truyện ngắn Nhớ cố hương (1943). Sau đó, những năm tháng sinh sống và làm việc ngoài Bắc, chính là khoảng thời gian mà nhà văn Đoàn Giỏi chuyên tâm nhất vào sự nghiệp viết văn của mình.

     

    Sự nghiệp sáng tác của nhà văn Đoàn Giỏi
    Sự nghiệp sáng tác của nhà văn Đoàn Giỏi

    Bằng tất cả tình yêu và sự tự hào về quê hương phương Nam, cùng nỗi nhớ thương da diết và vốn sống phong phú của mình, ông đã cho ra đời những trang văn tái hiện hết sức sinh động, chân thực về thiên thiên và con người Nam Bộ.

    Trong số đó, tác phẩm Đất rừng phương Nam là một trong những sáng tác nổi tiếng và để lại được nhiều dấu ấn sâu sắc nhất trong lòng độc giả. Đặc biệt, trước khi đi về cõi vĩnh hằng vì căn bệnh xơ gan, ông cũng đã để lại tác phẩm Núi cả mây ngàn còn đang dang dở.

    Những tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Đoàn Giỏi

     

    Những tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Đoàn Giỏi
    Những tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Đoàn Giỏi
    • Các tập truyện dài: Đất rừng phương Nam (1957), Đất rừng phương Nam (1957), Cá bống mú (1956), Cuộc truy tầm kho vũ khí (1962)
    • Tuyển tập truyện ngắn: Hoa hướng dương (1960), Chú bé Hà Nội và chú ó lửa trên, Đồng Tháp Mười (1987), Người tù chính trị năm tuổi (1973)
    • Các tác phẩm truyện ký: Ngọn tầm vông (1956), Trần Văn Ơn (1955), Người thủy thủ già trên hòn đảo lưu đày, Đèn tôi bay về Lục Hồ Chí Minh,…
    • Thể loại kịch thơ: Người Nam thà chết không hàng (1947), Chiến sĩ Tháp Mười (1949)
    • Các tác phẩm thơ: Giữ vững niềm tin (1954), Bến nước mười hai, Truyện thằng Cồi
    • Các biên khảo: Những chuyện lạ về cá (1981), Tê giác giữa ngàn xanh (1982).

    Với kho tàng tác phẩm đồ sộ, đề tài phong phú ở đủ cả các thể loại như tiểu thuyết; truyện ngắn; truyện dài; bút kí; biên khảo; kịch thơ; thơ;… Nhà văn Đoàn Giỏi đã làm cho vùng đất phương Nam trở nên thân thuộc, gần gũi hơn với người đọc.

    Đất rừng phương Nam – Tác phẩm nổi tiếng của Nhà Văn Đoàn Giỏi

    Nhắc đến nhà văn Đoàn Giỏi là phải nhắc tới Đất rừng phương Nam. Cho đến hiện nay, tác phẩm này đã được tái bản hàng chục lần, dịch và xuất bản ở Liên Xô, Hungari, Trung Quốc, Đức, Cuba. Đồng thời, tác phẩm cũng đã được chuyển thể thành phim và được khán giả đón nhận vô cùng tích cực.

    Theo kể lại, trong một lần nhà văn Đoàn Giỏi sang Liên Xô, ông có đến thăm nhà văn lớn Polevoi, trẻ con hàng xóm bên Nga đã chạy qua tụ tập để biết mặt ông và xin chữ ký. Nhà thơ Tế Hanh cũng đã từng nói với các nhà văn quốc tế rằng, Đất rừng phương Nam là truyện Robinson của Việt Nam, là những trang vàng huyền thoại và hấp dẫn không kém.

     

    Đất rừng phương Nam – Tác phẩm nổi tiếng của Nhà Văn Đoàn Giỏi
    Đất rừng phương Nam – Tác phẩm nổi tiếng của Nhà Văn Đoàn Giỏi

    Không giống với suy nghĩ của nhiều người, tác phẩm Đất rừng phương Nam hoàn toàn là một sáng tác được viết theo đơn đặt hàng. Năm 1957, sau khi chuyển ra Bắc sinh sống và làm việc tại Đài tiếng nói Việt Nam, nhà văn Đoàn Giỏi đã nhận được đơn đặt hàng từ nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, khi đó là Giám đốc Nhà xuất bản Kim Đồng, đã đề nghị ông viết một cuốn sách cho thiếu nhi để giới thiệu về quang cảnh, thiên nhiên và con người phương Nam.

    Với những nỗi nhớ và cảm xúc dạt dào về quê hương Nam Bộ, nhà văn Đoàn Giỏi đã chắp bút và hoàn thành tác phẩm chỉ trong vòng 1 tháng.

    Trong tác phẩm Đất rừng phương Nam, nhà văn Đoàn Giỏi đã mượn hình ảnh một cậu bé bị lưu lạc trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ để giới thiệu về đất rừng Nam Bộ. Hiện lên trong những trang văn chân thực là thiên nhiên rừng U Minh vừa kỳ thú, vừa giàu có và bí ẩn. Bên cạnh cánh rừng trù phú, sóng nước rì rầm còn là hình ảnh của những con người trung hậu, trí dũng, chất phác, một lòng một dạ đi theo kháng chiến.

    Với lối kể chuyện tự nhiên, giản dị, đậm chất Nam Bộ, tác giả Đoàn Giỏi đã dẫn dắt độc giả đi từ thú vị này cho đến thú vị khác. Giá trị nghệ thuật của tác phẩm Đất rừng phương Nam chính là tình yêu và sự gắn bó đối với quê hương, đất nước.

    Trên đây là những thông tin cơ bản và chi tiết nhất về tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác văn chương của nhà văn Đoàn Giỏi. Hy vọng, bài viết đã cung cấp được tới bạn những kiến thức văn học hữu ích và có giá trị.

    Tags:

  • Tiểu sử nhà văn Nguyễn Tuân, phong cách sáng tác và những tác phẩm nổi tiếng

    Tiểu sử nhà văn Nguyễn Tuân, phong cách sáng tác và những tác phẩm nổi tiếng

    Được mệnh danh là viên ngọc đắt giá của nền văn học Việt Nam, Nguyễn Tuân nổi lên là một cây bút tài hoa, độc đáo có một không hai. Mời bạn hãy cùng chúng tôi theo dõi bài viết dưới đây để hiểu hơn về cuộc đời, sự nghiệp và phong cách sáng tác của ông nhé!

    Giới thiệu đôi nét về tác giả Nguyễn Tuân

    Nguyễn Tuân (10/7/1910 – 28/7/1987), quê ở thôn Thượng Đình, xã Nhân Mục, nay là phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân. Ông là một nhà văn nổi tiếng với các thể loại bút ký và tùy bút. Nguyễn Tuân được đánh giá là một nhà văn tài hoa, uyên bác với phong cách viết văn độc đáo, là bậc thầy trong việc sáng tạo và sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt.

     

    Giới thiệu đôi nét về tác giả Nguyễn Tuân
    Giới thiệu đôi nét về tác giả Nguyễn Tuân

    Nguyễn Tuân sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà Nho khi Hán học đã tàn. Cha của ông là Nguyễn An Lan, một nhà nho tài hoa và yêu nước trong chế độ thực dân phong kiến. Ngay từ khi còn nhỏ, Nguyễn Tuân chịu ảnh hưởng rất nhiều từ cha mình. Thời niên thiếu, cuộc sống gia đình vất vả đã khiến cho ông phải di cư đến sinh sống ở nhiều tỉnh thành khác nhau và nơi ông sống lâu nhất là Thanh Hóa.

    Sinh ra trong thời kỳ chiến tranh, nước mất nhà tan, Nguyễn Tuân đã ý thức được rất sớm về trách nhiệm và lòng yêu quê hương, đất nước. Khi đang học đến bậc cuối của Thành chung Nam Định (Tương đương với cấp Trung học cơ sở hiện nay, tiền thân là Trường THPT Chuyên Lê Hồng Phong – Nam Định ngày nay), Nguyễn Tuân đã bị đuổi học vi tham gia vào cuộc bãi khóa phản đối giáo viên Pháp nói xấu người Việt năm 1929. Ít lâu sau, ông bị bắt vào tù vì qua biên giới Thái Lan mà không có giấy phép.

    Sau khi ra tù, ông mới bắt đầu nên duyên với sự nghiệp viết lách và trở thành một trong những nhà văn tên tuổi hàng đầu Việt Nam.

    Bắt đầu sự nghiệp văn chương từ những năm 1935, nhưng đến năm 1938 Nguyễn Tuân mới thực sự nổi tiếng thông qua những tác phẩm tùy bút, bút ký có phong cách độc đáo, sáng tạo như Vang bóng một thời, Một chuyến đi,…  Tới năm 1941, Nguyễn Tuân một lần nữa bị bắt giam vì có liên quan đến những người hoạt động chính trị.

    Năm 1945, Cách mạng tháng 8 thành công, Nguyễn Tuân tích cực tham gia vào các hoạt động cách mạng và kháng chiến vô cùng sôi nổi, nhiệt tình. Ông sử dụng văn chương thay cho lời ngợi cơ đất nước và cổ vũ tinh thần cho nhân dân, cùng nhân dân tham gia đánh giặc. Từ năm 1948 – 1957, Nguyên Tuân giữ chức Tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam.

    Sau cách mạng, các tác phẩm chính của Nguyễn Tuân có thể kể đến như: Tùy bút Sông Đà (1960) là kết quả của chuyến đi thực tế vùng Tây Bắc, Tập ký chống Mỹ (1965 – 1975) cùng nhiều bài tùy bút khác về thiên nhiên và cảnh sắc đất nước. Là một con người sống theo chủ nghĩa xê dịch, Nguyễn Tuân thích khám phá, trải nghiệm các vùng đất xuyên suốt chiều dài đất nước để tìm hiểu những điều mới mẻ.

    Cả một đời cống hiến cho sự nghiệp văn chương nước nhà, trước khi mất tại Hà Nội vào ngày 28/7/1987, ông đã để lại cho đời một kho tàng văn học đồ sộ, đáng kính nể.

    Phong cách sáng tác của Nguyễn Tuân

    Phong cách sáng tác của Nguyễn Tuân chịu ảnh hưởng rất lớn từ những tác động của tự nhiên, xã hội cùng những biến đổi của đất nước. Và có thể chia thành 2 giai đoạn chính: Trước Cách mạng tháng Tám và sau Cách mạng tháng Tám.

     

    Phong cách sáng tác của Nguyễn Tuân
    Phong cách sáng tác của Nguyễn Tuân

    Trước Cách mạng tháng Tám, phong cách sáng tác của Nguyễn Tuân có thể được tóm gọn lại trong một chữ “ngông”. Ông luôn khát khao đi tìm cái đẹp, cái còn sót lại xung quanh 3 chủ đề chính là “Chủ nghĩa xê dịch”, “Vang bóng một thời” và “Đời sống trụy lạc”.

    Sau Cách mạng tháng Tám, phong cách sáng tác của ông có nhiều biến chuyển quan trọng. Khi này, ông cho ra đời các tác phẩm xoay quanh đề tài quê hương đất nước, về tinh thần chiến đấu và lao động của nhân dân ta. Đồng thời, ông cũng mạnh dạn chỉ ra những mặt tiêu cực trong xã hội, ném đá vào kẻ thù của dân tộc.

    Trong cả hai giai đoạn sáng tác của mình, Nguyễn Tuân đều đạt được những thành tựu vô cùng quan trọng. Con đường nghệ thuật của Nguyễn Tuân từ một nhà văn lãng mạn, trở thành một công dân gắn bó với sự nghiệp cách mạng đất nước – khá tiêu biểu cho một đội ngũ đông đảo văn nghệ sĩ Việt Nam thời đó.

    Những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Tuân

    Nhờ sở hữu vốn từ giàu có, phong phú, nhất là vốn từ Hán – Việt, Nguyễn Tuân đã kết hợp ngôn ngữ cổ xưa cùng với ngôn ngữ hiện đại để mang đến cho độc giả những tác phẩm vô cùng ấn tượng, đóng góp to lớn vào kho tàng văn học Việt Nam. Các thể loại và tác phẩm tiêu biểu qua từng thời kỳ của ông có thể kể đến như:

     

    Những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Tuân
    Những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Tuân
    • Tập tùy bút: Thiếu quê hương (1940), Chiếc lư đồng mắt cua (1941), Tàn đèn dầu lạc (1941), Tùy bút (1941), Tóc chị Hoài (1943), Tùy bút II (1943), Đường vui (1949), Tùy bút kháng chiến (1955), Tùy bút kháng chiến và hòa bình (1956), Sông Đà (1960), Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972), Cảnh sắc và hương vị đất nước (1988).
    • Tùy bút – du ký: Một chuyến đi (1938), Tình chiến dịch (1950), Đi thăm Trung Hoa (1955).
    • Ký: Cô Tô (1986).
    • Phóng sự: Ngọn đèn dầu lạc (1939).
    • Tập truyện ngắn: Vang bóng một thời (1940), Nguyễn (1945).
    • Tiểu thuyết: Chùa Đàn (1946), Thắng càn (1953).
    • Truyện thiếu nhi: Truyện một cái thuyền đất (1958).
    • Tập tiểu luận: Yêu ngôn (2000, sau khi mất).

    Nhận định hay về nhà văn Nguyễn Tuân

    “Đây là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp, cái thật. Là người sinh ra để tôn thờ Nghệ Thuật với hai chữ viết hoa” –  Nguyễn Đình Thi.

    “Trong cái vội vàng, cái cẩu thả của những tác phẩm xuất bản gần đây, những sản phẩm đã hạ thấp văn chương xuống mực giá trị của một sự đua đòi, người ta lấy làm sung sướng khi thấy một nhà văn kính trọng và yêu mến cái đẹp, coi công việc sáng tạo là công việc quý báu và thiêng liêng” –  Nhà văn Thạch Lam.

    “Khi thì trang nghiêm cổ kính, khi thì đùa cợt bông phèng, khi thì thánh thót trầm bổng, khi thì xô bồ bừa bãi như là ném ra trong một cơn say chếnh choáng, khinh bạc đấy, nhưng bao giờ cũng rất đỗi tài hoa” – Nguyễn Ðăng Mạnh.

    “Ông xứng đáng được mệnh danh là “chuyên viên cao cấp tiếng việt” là người thợ kim hoàn của “chữ”” – Tố Hữu.

    “Chỉ người ưa suy xét đọc Nguyễn Tuân đọc mới thú vị, vì văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức” – Vũ Ngọc Phan.

    “Tinh thần tự nguyện dấn thân, bám trụ ở thành trì cái đẹp là biểu hiện sinh động của một nhân cách văn hóa lớn. Nhà văn Nguyễn Tuân đặc Việt Nam (chữ dùng của Vũ Ngọc Phan) từ quan niệm cho tới thực tế sáng tác” – Vũ Ngọc Phan.

    Với những đóng góp to lớn cho nền văn học nước nhà, Nguyễn Tuân đã được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996. Trở thành một trong những nhà văn vĩ đại nhất của nền văn học Việt Nam, cả một đời dâng hiến cái đẹp trong văn chương bằng tất cả cái tài và cái tâm của người nghệ sĩ lớn.

  • Tiểu sử nhà văn Vũ Trọng Phụng, phong cách sáng tác và những tác phẩm vượt thời gian

    Tiểu sử nhà văn Vũ Trọng Phụng, phong cách sáng tác và những tác phẩm vượt thời gian

    Nói đến nhà văn Vũ Trọng Phụng người ta thường nghĩ ngay tới những giọng văn trào phúng, châm biếm xã hội vào đầu thế kỷ XX. Tuy thời gian cầm bút ngắn ngủi nhưng kho tàng văn học để lại của nhà văn này để lại vẫn luôn là chủ đề được nhiều người quan tâm, phản ánh trực tiếp những vấn đề nhức nhối trong đời sống hàng ngày lúc bấy giờ. 

    Tiểu sử nhà văn Vũ Trọng Phụng

    Vũ Trọng Phụng (1912 – 1939) được biết đến là nhà văn, nhà báo nổi tiếng của Việt Nam ở khoảng đầu thế kỷ XX.

    Ông sinh ra ở làng Hảo, xã Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên. Cha ông mất sớm, mẹ là bà Phạm Thị Khách ở vậy nuôi con trưởng thành. Cuộc sống khó khăn, ông phải nghỉ học và đi làm kiếm sống từ năm 16 tuổi.

     

    Tiểu sử nhà văn Vũ Trọng Phụng
    Tiểu sử nhà văn Vũ Trọng Phụng

    Ông là một trong những lứa thanh niên Việt Nam được tiếp cận nền giáo dụng bằng tiếng Pháp và chữ Quốc ngữ do Toàn quyền Pháp đề xướng. Được giáo dục từ nhỏ nên văn hóa Pháp chính là điều ông thần tượng và mong muốn hướng tới.

    Sau vài năm làm việc ở các sở tư, ông chuyển hẳn và tập trung sang sự nghiệp viết văn, làm báo. Dù thời gian cần bút vô cùng ngắn ngủi nhưng ông đã để lại một kho văn học vô cùng đồ sộ, trong đó có: 30 truyện ngắn, 9 tập phóng sự, 9 tập tiểu thuyết, 7 vở kịch, 1 bản dịch kịch tiếng Pháp, một số bài viết phê bình văn học cùng hàng trăm bài báo về các lĩnh vực văn hóa, xã hội, chính trị.

    Cuộc sống ngắn ngủi, ngòi bút cật lực của ông vẫn chẳng thể khiến cho cuộc sống gia đình thoát khỏi sự nghèo khổ bởi trên vai ông còn mẹ, còn bà nội tuổi cao sức yếu. Ông chuyên viết về các thói ăn chơi, các tệ nạn trong xã hội nhưng bản thân ông vẫn luôn là người sống rất đạo đức.

    Năm 1938 ông lấy vợ, là bà Vũ Mỹ Lương là con của một nhà tư sản ở phố Hàng Bạc chuyên kinh doanh cửa hàng thuốc. Tuy nhiên, chỉ chưa tới 2 năm sau khi lấy vợ, ông mắc bệnh lao phổi, để lại gia đình là bà, là mẹ, là vợ cùng đứa con thơ chưa đầy 1 tuổi. Cả đời khổ cực, hạnh phúc chưa được bao lâu đã đoản mệnh mà qua đời. Thật nghiệt ngã!

    Phong cách sáng tác của Vũ Trọng Phụng

    Vũ Trọng Phụng luôn cho người đọc cảm giác gần gũi, chân thực bởi giọng văn trào phúng, châm biếm, lột tả chân thực và phê phán, lên án những thói hư, tật xấu của con người trong xã hội.

     

    Phong cách sáng tác của Vũ Trọng Phụng
    Phong cách sáng tác của Vũ Trọng Phụng

    Từ nhỏ đã sống trong nghèo khó, ông vô cùng thấu hiểu những gian khổ, tủi hờn của người lao động nghèo; ông viết về sự tha hóa của con người, vạch trần cái ác, cái xấu nhưng vẫn pha chút hài hước, dí dỏm.

    Nổi bật nhất trong những tác phẩm của ông đó chính là đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” trong tiểu thuyết “Số đỏ”. Ngay từ tiêu đề đoạn trích, Vũ Trọng Phụng đã khéo léo tạo cho người đọc cảm giác tò mò, hứng thú khi “tang gia” lại “hạnh phúc”. Qua đoạn trích này, ông đã xuất sắc trong việc thể hiện lối sống bất cần, thói khoe khoang màu mè tới lố bịch trong đám tang cụ Tổ. Xem thêm ở nội dung tiếp theo của bài viết!

    Những tác phẩm vượt thời gian của Vũ Trọng Phụng

    Chỉ với 27 năm cuộc đời, vỏn vẹn 8 năm sáng tác nhưng nhà văn Vũ Trọng Phụng cũng để lại không ít những tác phẩm vượt thời gian, giá trị vẫn được gìn giữ nguyên vẹn tới tận bây giờ:

     

    Những tác phẩm vượt thời gian của Vũ Trọng Phụng
    Những tác phẩm vượt thời gian của Vũ Trọng Phụng
    • Không một tiếng vang (1931): Đây là vở kịch đầu tiên của Vũ Trọng Phụng được đông đảo độc giả biết đến sau rất nhiều các tác phẩm truyện ngắn được viết trước đó. Thông qua tác phẩm, ông đã cho thấy cái vô nghĩa lý trước sức mạnh của đồng tiền, đồng tiền có thể sai khiến được tất cả mọi người, người ta phải kính thờ nó.
    • Giông tố (1936): Tác phẩm không chỉ phản ánh về giông tố trong xã hội mà viết về giông tố trong lòng của mỗi con người, sự tha hóa, thấp hèn và bất tín của xã hội Việt Nam thời Pháp thuộc. Đồng tiền đã chi phối tất cả, chẳng thể tin tưởng được ai, kể cả người nhà. MỘt vòng luẩn quẩn chẳng thể thoát ra!
    • Số đỏ (1936): Đây là một trong những tác phẩm tiểu thuyết làm nên tên tuổi của nhà văn Vũ Trọng Phụng, nhiều nhân vật, nhiều câu nói trong tác phẩm này đã đi sâu vào cuộc sống đời thường trong xã hội trong suốt nhiều năm nay. Bằng ngòi bút trào phúng độc đáo của mình, “Số đỏ” đã lên án gay gắt thực trạng xã hội tư sản thành thị lao theo lối sống văn minh lố lăng, lấy cái mác “Âu hóa” để biện minh cho lối ăn chơi trụy lạc, chà đạp lên mọi lối nề nếp, lối sống đạo đức truyền thống của người Việt.
    • Vỡ đê (1936): Tác phẩm vạch trần tội ác của thực dân và quan lại tay sai khi chúng hạch sách, bòn rút tiền tới tận cùng sức lực của người nông dân nghèo khổ. Ông còn liên tục chế giễu thói hèn kém, hối lộ, tham nhũng, bóp méo sự thật của giới quan liêu. Chính vì sự mọt ruỗng từ bên trong đã khiến cho mâu thuẫn xã hội bị đẩy lên cao, người dân sống trong bần cùng, cực khổ.

    Ngoài 4 tác phẩm trên thì nhà văn Vũ Trọng Phụng còn có rất nhiều các tiểu thuyết, phóng sự và các vở kịch để đời khác như: Làm đĩ, Lấy nhau vì tình, Trúng số độc đắc, Kỹ nghệ lấy Tây,…

    Nhà văn Vũ Trọng Phụng và những câu chuyện chưa kể

    “Thiên tài đoản phận” chẳng phải sai khi nhắc tới nhà văn Vũ Trọng Phụng, chỉ mới chưa đầy 20 tuổi đã sở hữu những cuốn tiểu thuyết khiến cho tất thảy văn nhân ngưỡng mộ, cảm phục tới mức đố kỵ. Tới khi mất, ánh sao băng ấy vẫn muốn được nhắm mắt xuôi tay, đầu gối lên tập bản thảo.

     

    Nhà văn Vũ Trọng Phụng và những câu chuyện chưa kể
    Nhà văn Vũ Trọng Phụng và những câu chuyện chưa kể

    Trời mà không gạch sổ sinh tử của thiên tài họ Vũ, cho ông sống tới khi Cách mạng nổ ra, chắc chắn ông sẽ là một nhà văn Cách mạng giống như Nguyên Hồng, Ngô Tất Tố hay Nguyễn Tuân. Bạc quá!

    Ai có thể nghĩ được một nhà văn với nhiều tác phẩm để đời như thế lại chẳng bao giờ có lấy trăm đồng bạc trong túi.

    Tới những ngày cuối đời, trên giường bệnh, ông đã nói “Nếu mỗi ngày tôi có một miếng bít tết để ăn thì đâu có phải chết non như thế này”. Câu nói như trút hết tâm tư trong lòng, những nỗi khổ của cuộc đời, sự nuối tiếc về những điều chưa thể thực hiện cho gia đình, cho đời, cho người.

    Cảm ơn bạn đọc đã ủng hộ và theo dõi nhà văn TP.HCM, sắp tới, chúng mình sẽ củng cố thêm nội dung chất lượng về các nhà văn, nhà thơ,… Mong bạn đọc đón xem!

  • Nhà văn Kim Lân – Sự nghiệp văn học & diễn xuất

    Nhà văn Kim Lân – Sự nghiệp văn học & diễn xuất

    Kim Lân – một nhà văn, một diễn viên gạo cội – cây bút viết truyện ngắn với những tác phẩm để đời gắn liền với con người, cuộc sống ở những vùng nông thôn Việt Nam vào thế kỷ trước. 

    Tiểu sử nhà văn Kim Lân

    Nguyễn Văn Tài (1920 – 2007) được biết tới với bút danh Kim Lân, ông được biết đến là một nhà văn, diễn viên Việt Nam vô cùng nổi tiếng. Bút danh Kim Lân được ông lấy từ một vai mà ông đã từng diễn – Đổng Kim Lân.

     

    Tiểu sử nhà văn Kim Lân
    Tiểu sử nhà văn Kim Lân

    Ông sinh ra và lớn hơn ở huyện Từ Sơn, Bắc Ninh. Sinh ra trong gia đình nghèo khó, ông chỉ được học hết tiểu học rồi nghỉ học đi làm phụ giúp gia đình: vừa làm thợ sơn guốc, vừa khắc tranh bình phong lại vừa viết văn.

    Ông có 5 người con đều là họa sĩ tài năng: họa sĩ Thành Chương, họa sĩ Nguyễn Thị Hiền, họa sĩ Nguyễn Mạnh Đức, họa sĩ Nguyễn Từ Ninh và họa sĩ Nguyễn Việt Tuấn.

    Kim Lân bắt đầu viết truyện ngắn từ năm 1941, các tác phẩm của ông được đăng trên các báo “Tiểu thuyết thứ bảy” và “Trung Bắc chủ nhật”.

    Sự nghiệp của ông được chia thành 2 giai đoạn: trước Cách mạng tháng Tám và sau cách mạng tháng Tám. Dù không viết nhiều nhưng ở giai đoạn nào ông cũng có những tác phẩm hay, gắn liền với đời sống và những sự kiện diễn ra hàng ngày của người nông dân thời kỳ đó. Năm 2001, trước những đóng góp của mình trong suốt nhiều thập kỷ, Kim Lân đã được nhà nước trao tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.

    Năm 2007, sau một thời gian dài chống chọi với căn bệnh hen suyễn quái ác, ông mất tại Bệnh viện Hữu Nghị Hà Nội ở tuổi 86.

    Phong cách sáng tác và những tác phẩm của nhà văn Kim Lân

    Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn, sinh ra và lớn lên ở làng quê miền Bắc, ông am hiểu về những phong tục tập quán, đời sống hàng ngày của người dân. Chính vì thế, những tác phẩm của ông tập trung xoáy sâu vào cuộc sống hàng ngày với ngôn từ vô cùng giản dị mà không kém phần phong phú, sống động, đậm chất thôn quê.

     

    Phong cách sáng tác và những tác phẩm của nhà văn Kim Lân
    Phong cách sáng tác và những tác phẩm của nhà văn Kim Lân

    Sự nghiệp sáng tác của ông không phải hàng chục hay hàng trăm tác phẩm như những nhà thơ, nhà văn khác nhưng những tác phẩm ông để lại còn đọng lại trong lòng người đọc những gợi nhớ về một vùng quê Việt Nam dân giã, bình dị; trong đó có các tác phẩm nổi tiếng như:

    • Vợ nhặt (in trong tập Con chó xấu xí năm 1962) được đánh giá là một trong những tác phẩm truyện ngắn xuất sắc nhất trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Tác phẩm phản ánh hiện thực khốc liệt của nạn đói khủng khiếp năm 1945 (năm Ất Dậu), đây chính là tội ác của bọn thực dân phát xít hằn sâu trong tâm trí của mỗi người Việt mà mỗi khi nhắc đến đều cảm thấy nghẹn lòng.

    Những tưởng cảnh nghèo đói sẽ khiến con người ta phải lừa lọc, cướp bóc, tranh giành, giẫm đạp lên nhau mà sống, bán rẻ lòng tự trọng; tuy nhiên, trong “Vợ nhặt”, người đọc lại bắt gặp những người nghèo vật chất nhưng lại không nghèo tinh thần, họ sẵn sàng cưu mang người khác ngay cả khi bản thân nọ đang đứng trên bờ vực cái chết, không biết tương lai sẽ như thế nào.

    • Làng (1948)  được ra đời vào đầu thời kỳ kháng chiến chống Pháp, truyện ngắn bao hàm giá trị nội dung vô cùng sâu sắc. Thông qua nhân vật ông Hai, một người vô cùng yêu làng của mình, khi hay tin làng theo giặc, ông vô cùng buồn, đau đớn, tâm trạng mâu thuẫn, dằn vặt.

    Ông lầm lũi, im lặng, ngập tràn nỗi buồn, tâm sự với thằng con út để thể hiện tình yêu cách mạng của mình. Đến đứa con nhỏ của ông còn tin tưởng ủng hộ cụ Hồ thì cớ gì làng ông có thể theo giặc được. Cho tới khi biết sự thực đúng sai, khỏi phải nói, ông vui mừng tới như thế nào, lời nói đầy hạnh phúc và có phần lắp bắp không rõ nghĩa.

    Nhân vật ông Hai cũng đại diện cho nỗi lòng của cả triệu người dân Việt Nam, một lòng yêu quê hương, đất nước, tinh thần kiên cường, bất khuất chống giặc ngoại xâm, tin tưởng vào Đảng, nhà nước. Dù là 1000 năm trước hay 1000 năm sau thì lòng yêu nước vẫn chẳng thể nào đổi thay!

    Ngoài 2 tác phẩm truyện ngắn trên thì Kim Lân còn có các tác phẩm truyện ngắn khác như “Đôi chim thành”, “Con mã mái”, “Chó săn”, “Nên vợ nên chồng”,…

    Sự nghiệp diễn xuất của nhà văn Kim Lân

    Phong cách sáng tác và những tác phẩm của nhà văn Kim Lân
    Phong cách sáng tác và những tác phẩm của nhà văn Kim Lân

    Ngoài vai trò là một nhà văn thì Kim Lân còn được biết đến là một diễn viên tham gia rất nhiều các bộ phim và vở kịch như:

    • Nhân vật Lão Hạc trong phim Làng Vũ Đại ngày ấy
    • Nhân vật Lý Cựu trong phim Chị Dậu
    • Nhân vật Lão Pẩu trong phim Con Vá
    • Nhân vật Cả Khiết trong vở kịch Cái tủ chè
    • Nhân vật Cụ lang trong phim Hà nội 12 ngày đêm,…

    Những nhận định về nhà văn Kim Lân

    Chính Kim Lân đã từng nói “Viết văn, trước tiên tôi viết cho mình, cho những mơ ước, gửi gắm của chính mình. Sau nữa, đó là những lời bộc bạch, tâm sự với bạn đọc những điều đang nhức nhối, đang thôi thúc”.

     

    Những nhận định về nhà văn Kim Lân
    Những nhận định về nhà văn Kim Lân

    Bản thân ông viết văn như viết chính về cuộc đời mình, những mong ước của bản thân đối với cuộc đời. Ông là con của vợ ba, một người ngụ cư nên đã gặp không ít những điều tiếng, khinh rẻ. Chính vì thế ông đã dùng ngòi bút của mình để đòi lại sự công bằng cho bản thân, cất lên tiếng nói, bày tỏ lòng mình với bạn bè, làng xóm.

    Nếu như trong hoàn cảnh khốn cùng, bi thảm, người ta thường nghĩ tới cái chết, nghĩ tới sự loạn lạc, cướp bóc, chà đạp lên nhân phẩm, xã hội vì đồng tiền; với Kim Lân, ông luôn hướng tới sự sống, hy vọng ở một tương lai tươi sáng – Sống cho ra sống, sống cho ra con người!

    Nhà văn Kim Lân đã dành trọn đời mình cho nền văn học mới, một tấm gương đẹp về sự kiên định, vững vàng về bản lĩnh, dành trọn lòng mình với kháng chiến, với cách mạng, để lại cho hậu thế những tác phẩm truyện ngắn có sức sống trường tồn, làm giàu thêm, phong phú thêm kho tàng văn học Việt.

    Mong rằng những chia sẻ của Nhà văn TP.HCM đã có thể giúp bạn có thêm những thông tin hữu ích về nhà văn Kim Lân. Bạn cũng có thể sử dụng những tư liệu này để để phục vụ cho học tập và công việc của mình. Chúc các bạn học tập hiệu quả!

  • Nguyễn Quang Sáng: Cuộc đời sự nghiệp và phong cách sáng tác văn học

    Nguyễn Quang Sáng: Cuộc đời sự nghiệp và phong cách sáng tác văn học

    Nguyễn Quang Sáng là cây bút đại thụ của nền văn học Việt Nam. Ông được độc giả biết đến nhiều nhất thông qua truyện ngắn Chiếc lược ngà. Với phong cách sáng tác gần gũi, giản dị và chân thực về con người, cảnh sắc thiên nhiên. Các tác phẩm của ông đều để lại được ấn tượng vô cùng sâu sắc trong lòng người đọc. 

    Tìm hiểu tiểu sử tác giả Nguyễn Quang Sáng

    Nhà văn Nguyễn Quang Sáng, có bút danh là Nguyễn Sáng (12/1/1932 – 13/2/2014), quê quán tại xã Mỹ Luông, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Ông sinh ra trong một gia đình làm nghề thợ bạc và lớn lên trong những năm tháng đất nước có chiến tranh. Vậy nên, vào năm 1946, khi mới chỉ 14 tuổi, ông đã xung phong vào quân đội và tham gia làm liên lạc viên cho đơn vị Liên Chi 2.

    Tìm hiểu tiểu sử tác giả Nguyễn Quang Sáng
    Tìm hiểu tiểu sử tác giả Nguyễn Quang Sáng

    Năm 1948, ông được cử đi học văn hóa tại Trường trung học kháng chiến Nguyễn Văn Tố. Đến năm 1950, Nguyễn Quang Sáng trở về công tác tại Phòng Chính trị Bộ Tư lệnh phân khu miền Tây Nam Bộ và trở thành cán bộ nghiên cứu tôn giáo.

    Năm 1955, Nguyễn Quang Sáng đi theo đơn vị và được tập kết ra ngoài miền Bắc, ông chuyển ngành với quân hàm Chuẩn úy rồi về công tác tại Phòng Văn nghệ Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam. Từ năm 1958, ông chuyển về công tác tại Hội Nhà văn Việt Nam và giữ chức vụ biên tập viên tuần báo Văn nghệ biên tập nhà xuất bản Văn học.

    Năm 1966, ông trở vào chiến trường miền Nam và làm cán bộ sáng tác của Hội Văn nghệ Giải phóng. Năm 1972, Nguyễn Quang Sáng lại tiếp tục ra Hà Nội và làm việc ở Hội Nhà văn Việt Nam.

    Sau ngày thống nhất đất nước 30/4/1975, Nguyễn Quang Sáng quay về TP. Hồ Chí Minh và giữ chức vụ Tổng Thư ký Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh các khóa l, II và III, cho đến năm 2001 khi ông về nghỉ hưu trí. Ông cũng là hội viên của Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1957; Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam; Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khóa II, III; Phó tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam khóa IV.

    Với những cống hiến to lớn cho sự nghiệp văn học nước nhà, Nguyễn Quang Sáng đã được trao tặng nhiều giải thưởng cao quý trong ngành như Giải Mai Vàng cho Nhà thơ xuất sắc nhất năm 1977, giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật đợt II năm 2001.

    Nhà văn Nguyễn Quang Sáng cũng được biết đến là cha ruột của đạo diễn Nguyễn Quang Dũng, người từng làm giám khảo của cuộc thi Việt Nam Idol và cũng là đạo diễn của rất nhiều bộ phim nổi tiếng.

    Phong cách sáng tác của Nguyễn Quang Sáng

    Là một người con của quê hương Nam Bộ, vậy nên phong cách sáng tác của ông cũng luôn thấm đẫm màu sắc và nhịp sống của vùng đất này, gần gũi mà giản dị vô cùng.

    Trong hầu hết các sáng tác của đời mình, ông đều hướng ngòi bút về con người và cảnh sắc thiên nhiên. Nhờ việc sử dụng những ngôn ngữ rất đời thường, kết hợp với màu sắc bi tráng, câu chuyện kịch tính, giàu chất thơ ca càng làm cho các tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng trở nên rất đỗi thân thương và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả.

    Phong cách sáng tác của Nguyễn Quang Sáng
    Phong cách sáng tác của Nguyễn Quang Sáng

    Lời văn của Nguyễn Quang Sáng hết sức mộc mạc, dễ hiểu mà vẫn nêu bật lên được những vấn đề trong thực tại, những giá trị chân thực về cuộc sống, con người và xã hội. Đặc biệt, các giá trị nhân văn đã được ông lồng ghép một cách khéo léo vào trong các tác phẩm văn học để tạo sự sâu sắc và ý nghĩa nhất. Ông cũng được đánh giá là một tác giả có giọng văn đa dạng, lúc thì da diết, nhớ thương, khi thì hùng hồn, mạnh mẽ.

    Nổi bật nhất trong các sáng tác của ông có thể kể đến truyện ngắn Chiếc lược ngà đã được đưa vào chương trình giảng dạy Ngữ văn ở bậc Trung học cơ sở. Chiếc lược ngà là một câu chuyện sâu sắc và cảm động về tình cảm gia đình. Trong những năm tháng kháng chiến, bom đạn đã cướp đi sự hạnh phúc của con người. Chỉ vì một vết sẹo khi đi lính, mà bé Thu đã không nhận ra cha mình là anh Sáu, điều này đã khiến cho anh vô cùng đau đớn.

    Ngày quay trở lại chiến trường, anh Sáu vẫn giữ lời hứa làm cho con một chiếc lược bằng ngà voi. Chiếc lược ngà tuy bé nhỏ nhưng chất chứa vô vàn tình yêu thương, trở thành kỷ vật của bé Thu sau này.

    Tuy nhiên, thật đáng buồn, sau một trận càn của địch đã khiến cho anh Sáu bị thương nặng và không may hy sinh. Sau đó, anh chỉ kịp trao nó cho một người bạn của mình là nhà văn Nguyễn Quang Sáng cùng với lời dặn dò trao đến tận tay cho bé Thu, con gái của anh.

    Chiếc lược ngà đã trở thành một biểu tượng đẹp đẽ, khắc họa về tình phụ tử cao cả trong những năm tháng kháng chiến. Bên cạnh đó, cái chết của anh Sáu còn thể hiện cho những nỗi đau mà bom đạn gây ra, cướp đi người thân của nhiều gia đình.

    Những tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Nguyễn Quang Sáng

    Những tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Nguyễn Quang Sáng
    Những tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Nguyễn Quang Sáng

    Nguyễn Quang Sáng đã để lại cho đời một kho tàng văn học với các thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết vô cùng đồ sộ, tiêu biểu như:

    • Con chim vàng (Tập truyện ngắn, 1956)
    • Người quê hương (Tập truyện ngắn, 1968)
    • Nhật ký người ở lại (Tiểu thuyết, 1961)
    • Đất lửa (Tiểu thuyết, 1963)
    • Câu chuyện bên trận địa pháo (Truyện vừa, 1966)
    • Chiếc lược ngà (Tập truyện ngắn, 1966)
    • Bông cẩm thạch (Tập truyện ngắn, 1969)
    • Cái áo thằng hình rơm (Truyện vừa, 1975)
    • Mùa gió chướng (Tiểu thuyết, 1975)
    • Người con đi xa (Tập truyện ngắn, 1977)
    • Dòng sông thơ ấu (Tiểu thuyết, 1985)
    • Bàn thờ tổ của một cô đào (Tập truyện ngắn, 1985)
    • Tôi thích làm vua (Tập truyện ngắn, 1988)
    • 25 truyện ngắn (1990)
    • Paris – tiếng hát Trịnh Công Sơn (1990)
    • Con mèo của Foujita (Tập truyện ngắn, 1991)
    • Nhà văn về làng (Tập truyện ngắn, Nhà xuất bản văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 2008).

    Không chỉ đạt được những thành tựu xuất sắc trong lĩnh vực viết văn, Nguyễn Quang Sáng còn nổi tiếng là một nhà biên kịch tài hoa, với những kịch bản phim ấn tượng như:

    • Mùa gió chướng (1977)
    • Cánh đồng hoang (1978)
    • Pho tượng (1981)
    • Cho đến bao giờ (1982)
    • Mùa nước nổi (1986)
    • Dòng sông hát (1988)
    • Câu nói dối đầu tiên (1988)
    • Thời thơ ấu (1995)
    • Giữa dòng (1995)
    • Như một huyền thoại (1995)

    Tiểu sử cuộc đời, phong cách sáng tác và những tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã để lại ấn tượng vô cùng sâu sắc đối với độc giả trong nhiều thập kỷ qua. Hy vọng, bài viết đã cung cấp được đến cho bạn những thông tin hữu ích, giá trị về nhà văn Nguyễn Quang Sáng.

  • Bà Huyện Thanh Quan : Tiểu sử, phong cách sáng tác và những tác phẩm nổi tiếng

    Bà Huyện Thanh Quan : Tiểu sử, phong cách sáng tác và những tác phẩm nổi tiếng

    Thơ Bà Huyện Thanh Quan đầy chất thơ. Lời thơ của bà điêu luyện, gọt giũa, đẹp như một bức tranh cổ”. Đó là lời nhận xét của giáo sư Thanh Lãng về Bà Huyện Thanh Quan, bà là một trong số ít những nữ thi sĩ có sở trường với thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Thơ của bà thường thể hiện sự yêu mến cảnh sắc thiên nhiên, đất nước, cùng với đó là tâm trạng ái hoài trước sự thay đổi của thế sự. 

    Tiểu sử Bà Huyện Thanh Quan

    Bà Huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh, chưa rõ về năm sinh năm mất của bà. Tuy nhiên, theo nhiều tư liệu ghi chép được thì bà sinh năm 1805 và mất năm 1848, hưởng thọ 43 tuổi. Mộ của bà từng được đặt ở bên bờ Hồ Tây (Hà Nội), nhưng vì sóng gió mà đã làm sạt lở, hiện ngôi mộ của bà đã không còn tăm tích.

     

    Tiểu sử Bà Huyện Thanh Quan
    Tiểu sử Bà Huyện Thanh Quan

    Bà Huyện Thanh Quan có quê quán thuộc phường Nghi Tàm, huyện Vĩnh Thuận, nay thuộc quận Tây Hồ – Hà Nội. Cha của bà là Nguyễn Lý (1755-1837), đỗ thủ khoa năm 1782, đời vua Lê Hiển Tông. Bà là vợ của ông Lưu Nghi, từng giữ chức vụ tri huyện Thanh Quan, nay là huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Cũng bởi vậy mà người ta thường gọi bà bằng cái tên Bà Huyện Thanh Quan. Ông Lưu Nghi chồng bà được làm quan trải đến chức Bát phẩm Thư lại bộ Hình, nhưng mất sớm năm 43 tuổi. Sau khi chồng mất, bà Huyện Thanh Quan cùng 4 người con của mình sinh sống ở phố Nghi Tàm cho đến hết cuộc đời.

    Bà Huyện Thanh Quan cũng là người học rộng, hiểu sâu, dưới thời vua Minh Mạng, bà đã được mời vào kinh để giữ chức Cung Trung Giáo Tập, dạy học cho các công chúa và cung phi.

    Sự nghiệp văn chương và những tác phẩm của Bà Huyện Thanh Quan

     

    Sự nghiệp văn chương và những tác phẩm của Bà Huyện Thanh Quan
    Sự nghiệp văn chương và những tác phẩm của Bà Huyện Thanh Quan

    Cái chất thơ của Bà Huyện Thanh Quan có lẽ không chỉ bắt nguồn từ cái nôi của gia đình khoa bảng, mà còn bắt nguồn từ chính mảnh đất quê hương mình là làng Nghi Tàm. Đây là nơi mà công chúa Từ Hoa, con gái của vua Thần Tông nhà Lý vào thế kỷ II đã lập ra trại dạy cung nữ trồng dâu nuôi tằm. Các tác phẩm mà Bà Huyện Thanh Quan để lại cho hậu thế là rất ít, hầu hết đều được viết bằng chữ Nôm và theo thể thơ Đường Luật. Một số tác phẩm được tìm thấy có thể kể đến như:

    • Qua Đèo Ngang
    • Thăng Long thành hoài cổ
    • Qua chùa Trấn Bắc
    • Chiều hôm nhớ nhà
    • Tức cảnh chiều thu
    • Cảnh đền Trấn Võ
    • Cảnh Hương sơn

    Phong cách sáng tác của Bà Huyện Thanh Quan

    Tuy không sáng tác nhiều như các nhà thơ khác, song các tác phẩm của Bà Huyện Thanh Quan đều gây được tiếng vang lớn trên thi đàn Việt Nam và thể hiện được một phong cách riêng biệt.

    Các bài thơ Đường luật thường bị gò bó và hạn chế về mặt cảm xúc bởi các niêm luật, điển tích điển cố. Trong khi đó, thơ chữ nôm đôi khi lại quá nông, không đủ để diễn tả sức gợi của ngôn từ. Tuy nhiên, Bà Huyện Thanh Quan lại chính là một trong số rất ít những nhà thơ có thể  trung hòa được cả hai yếu tố trên.

     

    Phong cách sáng tác của Bà Huyện Thanh Quan
    Phong cách sáng tác của Bà Huyện Thanh Quan

    Cũng bởi vậy mà cố Giáo sư Phạm Thế Ngũ đã nhận định: “Thơ Đường trước bà người ta đã làm vô số, sau bà người ta cũng còn làm vô số. Nhưng trước cũng như sau, có lẽ không ai vượt được Nữ Sĩ Thanh Quan”. Các tác phẩm của Bà Huyện Thanh Quan khi thì cổ kính, khi lại gần gũi và giản dị vô cùng.

    Cuộc đời Bà Huyện Thanh Quan gắn liền với nhiều thăng trầm của đất nước, vì thế mà chất thơ và tâm trạng của bà thể hiện rõ tình thương nước, thương dân. Đồng thời, cũng hoài niệm về quá khứ vàng son. Thơ của bà cũng như là một lời tâm sự, mượn cảnh để ngụ tình, vừa gần gũi vừa mênh mông, vừa có cả nỗi buồn và sự cô đơn.

    Người đời coi thơ của Bà Huyện Thanh Quan là thơ hoài cổ thương kim cũng là điều vô cùng dễ hiểu, bởi cha ông bà vốn dĩ đã chịu nhiều ơn dày nặng của tiền triều Lê – Trịnh, bỗng chốc khi đất nước thay thầy đổi chủ, không riêng gì bà, nhiều đại thần khác như Phạm Quý Thích, Nguyễn Du… khi đến với tân triều, không khỏi ngỡ ngàng, lòng trĩu nặng ưu tư. Thi hào Nguyễn Du cũng đã để lại hai bài thơ chữ Hán Thăng Long I và II đượm màu hoài cổ đó sao ?

    Tuy nhiên, thơ hoài cổ của Bà Huyện Thanh Quan và Đại thi hào Nguyễn Du có một điểm giống nhau là buồn mà không bi lụy. Thơ của bà sâu sắc, chân thành, rất dễ gây xúc động và được diễn đạt bằng một phong cách nghệ thuật vô cùng điêu luyện

    Qua đèo ngang – Tác phẩm nổi tiếng của Bà Huyện Thanh Quan

    Nổi bật nhất trong sự nghiệp sáng tác văn chương của Bà Huyện Thanh Quan phải kể đến bài thơ Qua Đèo Ngang. Tác giả sáng tác bài thơ trong thời gian đi vào Huế nhậm chức theo lệnh của nhà vua. Khi đi qua đèo ngang – Một địa giới tự nhiên nằm giữa hai tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình, Bà Huyện Thanh Quan đã dừng chân nghỉ ngơi và tức cảnh sinh tình cho ra đời bài thơ này.

     

    Qua đèo ngang – Tác phẩm nổi tiếng của Bà Huyện Thanh Quan
    Qua đèo ngang – Tác phẩm nổi tiếng của Bà Huyện Thanh Quan

    Bài thơ Qua Đèo Ngang được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Hai câu đề là cảnh vật Đèo Ngang qua góc nhìn chung, hai câu thực tiếp theo là hoạt động của con người ở Đèo Ngang. Hai câu luận thể hiện tâm trạng chất chứa của tác giả và hai câu kết là những nỗi cô đơn, trống vắng của Bà Huyện Thanh Quan.

    Chỉ với 8 câu thơ, tác giả đã thể hiện được tâm trạng cô đơn cùng nỗi hoài cổ trước cảnh vật ở Đèo Ngang. Cùng với đó là nỗi buồn, nỗi sầu nhân thế của nữ nhà thơ. Đồng thời, cũng cho thấy Bà Huyện Thanh Quan là một con người có sự yêu mến non sông, đất nước.

    Bà Huyện Thanh Quan là một cây bút vô cùng điêu luyện, có khả năng sử dụng ngôn ngữ vô cùng trau chuốt và được gọt giũa cẩn thận. Thơ của bà hầu hết đều thể hiện tình cảm cao cả như thương dân, yêu quê hương, yêu đất nước và bà cũng là tấm gương về lòng trung hiếu mà các thế hệ sau cần phải noi gương và học tập.

    ” Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,
    Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
    Lom khom dưới núi, tiều vài chú,
    Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.
    Nhớ nước, đau lòng, con quốc quốc,
    Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.
    Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,
    Một mảnh tình riêng, ta với ta “.

    Trích Qua Đèo Ngang – Bà Huyện Thanh Quan.

  • Nguyễn Bính: Tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác

    Nguyễn Bính: Tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác

    Nguyễn Bính là một nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới thời kỳ 1932-1945. Thơ của ông để lại sự ấn tượng và thương nhớ với người đọc nhờ sự chân quê, mộc mạc và gần gũi vô cùng. Mời bạn hãy cùng với nhavantphcm.com.vn tìm hiểu những thông tin chi tiết về cuộc đời sự nghiệp và phong cách sáng tác của nhà thơ Nguyễn Bính nhé!

    Tiểu sử nhà thơ Nguyễn Bính

    Nguyễn Bính tên khai sinh là Nguyễn Trọng Bính (1918-1966), quê quán tại xóm Trạm, thôn Thiện Vịnh, xã Đồng Đội nay là xã Cộng Hòa, thuộc huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.

    Ông sinh ra và lớn lên trong một vùng quê nổi tiếng với truyền thống văn chương và khoa bảng. Nơi ấy mang đậm nét đặc trưng của vùng làng quê Bắc Bộ xưa với những đêm hát giao duyên giữa các liền anh liền chị, các gánh hát chèo giữa các thôn xóm, bản làng. Tất cả những nét sinh hoạt đó, sau này đã ảnh hưởng rất nhiều tới các sáng tác của Nguyễn Bính.

     

    Tiểu sử nhà thơ Nguyễn Bính
    Tiểu sử nhà thơ Nguyễn Bính

    Bài thơ Cô hái mơ là sáng tác đầu tiên của Nguyễn Bính được đăng báo. Năm 1937, ông gửi tập thơ Tâm hồn tôi đi dự thi và giành được giải khuyến khích của nhóm Tự lực văn đoàn. Năm 1940, Nguyễn Bính bắt đầu trở nên nổi tiếng nhờ số lượng các tác phẩm thơ ngày một nhiều và phong phú, chủ yếu là thơ tình.

    Năm 1947, Nguyễn Bính đi theo Việt Minh và tới năm 1954 theo Hiệp định Genève, Nguyễn Bính cũng giống như bao cán bộ Việt Minh tập kết ra ngoài miền Bắc. Sau đó, ông bắt đầu công tác tại Nhà xuất bản Văn nghệ và làm chủ bút báo Trăm hoa.

    Nguyễn Bính còn được nhận xét là một con người rất lãng mạn và đào hoa. Ông trải qua rất nhiều mối tình và nhiều cuộc hôn nhân khác nhau. Tuy nhiên, trong sự nghiệp văn chương thì Nguyễn Bính lại tỏ ra là một con người vô cùng chỉn chu, cần mẫn và sống hết mình với sự nghiệp thi ca trong suốt 30 năm.

    Người được cho là có ảnh hưởng lớn nhất đến cuộc đời thi ca của Nguyễn Bính chính là Đại thi hào Nguyễn Du. Ông luôn coi Nguyễn Du là thần tượng số một trong lòng mình. Cũng bởi sự mến mộ đó mà những sáng tác của Nguyễn Bính đâu đó cũng phảng phất âm hưởng của truyện Kiều.

    Những nét chân quê trong hồn thơ Nguyễn Bính

    Nhắc tới Nguyễn Bính là nhắc tới một thi sĩ của đồng quê, nhìn vào kho tàng tác phẩm đồ sộ của ông, có thể chia ra làm hai dòng đó là “lãng mạn” và “cách mạng”.

    Đọc tác phẩm của Nguyễn Bính, người đọc đều thấy được những nét dung dị, đằm thắm, đậm sắc hồn dân tộc và vô cùng gần gũi. Cái tình trong thơ của ông luôn tỏ rõ được sự mặn mà, mộc mạc, sâu sắc và rất tế nhị, phù hợp với phong cách và tâm hồn của người Á Đông.

     

    Những nét chân quê trong hồn thơ Nguyễn Bính
    Những nét chân quê trong hồn thơ Nguyễn Bính

    Cũng bởi vậy mà thơ của Nguyễn Bính rất dễ đi vào tâm hồn của con người ta, chiếm được cảm tình của đông đảo độc giả từ thành thị cho đến nông thôn. Đặc biệt là những người ở tầng lớp bình dân, họ thuộc lòng và ngâm nga thơ của Nguyễn Bình nhiều nhất. Và thơ hay không phải là một bài thơ phải dùng đến quá nhiều ngôn ngữ đặc biệt, mà bài thơ đó phải dễ thuộc, dễ khiến cho con người ta nhận thấy được sự đồng cảm.

    Thơ của Nguyễn Bính thắm đượm cảnh quê, tình quê và hồn quê nước Việt với một sắc thái cũng vô cùng lãng mạn. Người đọc có thể dễ dàng bắt gặp trong thơ của ông những hình ảnh giản dị đời thường như hàng cau, rặng mùng tơi, cây bưởi, giàn trầu,…

    Nguyễn Bính là một nhà thơ suốt đời muốn lưu giữ những nét “chân quê”. Chân quê ở đây còn là những đức tính tốt đẹp có từ ngàn đời của người dân quê ta. Đó là sự hồn hậu, giản dị, chân chất, sống tình nghĩa biết trước biết sau, biết lưu giữ và duy trì những phong tục tập quán truyền thống của dân tộc.

    Thơ của Nguyễn Bình cũng đặc trưng cho sự giản dị và mượt mà. Ông thường thể hiện rõ sự khéo léo trong phong cách sáng tác khi kết hợp nhuần nhuyễn thể thơ lục bát cùng với những hình ảnh làng quê mộc mạc, gần gũi. Bởi vậy, những vần thơ của ông khi được đọc lên đều có được sự nhẹ nhàng và duyên dáng.

    Không chỉ mang đến cho người đọc những bài thơ mang đậm nét chân quê, giản dị mà những sáng tác về chủ đề tình yêu của ông vô cùng ấn tượng với độc giả.

    Tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Nguyễn Bính

    Trong suốt sự nghiệp sáng tác của mình, Nguyễn Bính đã cho ra đời nhiều tác phẩm ở đủ mọi thể loại như truyện thơ, kịch, thơ,… Ông để lại cho hậu thế một khối lượng tác phẩm khổng lồ, đặc biệt phải kể đến một số sáng tác như:

     

    Tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Nguyễn Bính
    Tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Nguyễn Bính

    Thể loại thơ: Những bóng người trên sân ga (1937), Cô hái mơ (2007), Tương tư, Qua nhà (Yêu đương 1936), Chân quê (1940), Lỡ bước sang ngang (1940 – 34 bài), Tâm hồn tôi (1940 – 23 bài), Hương cố nhân (1941), Hồn trinh nữ (1958), Một nghìn cửa sổ (1941), Sao chẳng về đây (1941), Người con gái ở lầu hoa (1942-24 bài), Mười hai bến nước (1942-12 bài), Mây tần (1942-9 bài), Ông lão mài gươm (1947), Chiến dịch mùa xuân (1949), Đồng Tháp Mười (1955), Trả ta về (1955), Gửi người vợ miền Nam (1955), Nước giếng thơi (1957), Tình nghĩa đôi ta (1960).

    Truyện thơ: Truyện Tỳ Bà (1942), Tiếng trống đêm xuân (1958).

    Chèo: Cô Son (Chèo cổ 1961), Người lái đò sông Vỹ (Chèo 1964).

    Kịch thơ: Bóng giai nhân (1942).

    Bên cạnh đó, thơ của Nguyễn Bình còn được phổ thành nhiều bài nhạc nổi tiếng như:

    Tác phẩm Người phổ nhạc
    Cách xa Song Ngọc
    Chân quê Trung Đức
    Chuyện tình hoa mai Anh Bằng
    Cô hái mơ Phạm Duy
    Cô lái đò Nguyễn Đình Phúc
    Gái xuân Từ Vũ
    Ghen Trọng Khương
    Hôn nhau Văn Phụng
    Hương đồng gió nội Song Ngọc
    Khúc hát chiều tà Lã Văn Cường
    Lỡ bước sang ngang Song Ngọc
    Một lần cuối Văn Phụng
    Mưa xuân Huy Thục
    Người hàng xóm Anh Bằng phổ thành ca khúc Bướm Trắng
    Nhạc xuân Đức Quỳnh
    Nụ tầm xuân Phạm Duy
    Thoi tơ Đức Quỳnh
    Thời trước Văn Phụng
    Tiểu đoàn 307 Nguyễn Hữu Trí
    Viếng hồn trinh nữ Trịnh Lâm Ngân phổ thành ca khúc Hồn trinh nữ

    Thông qua bài viết trên đây, Nhà văn TP. HCM hy vọng bạn đã có được cho mình những kiến thức hữu ích, giá trị để hiểu hơn về cuộc đời, phong cách sáng tác và những tác phẩm tiêu biểu nhất của nhà thơ Nguyễn Bính.

  • Hồ Xuân Hương: Tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác thơ ca

    Hồ Xuân Hương: Tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác thơ ca

    Tác giả Hồ Xuân Hương được người đọc biết đến nhiều nhất thông qua bài thơ Bánh trôi nước. Đây là một tác phẩm đã được in trong sách giáo khoa ngữ văn lớp 7. Bà cũng được mệnh danh là “Bà chúa thơ Nôm” của Việt Nam với nhiều bài thơ mang đậm chất trữ tình và ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ.

    Để hiểu hơn về cuộc đời sự nghiệp, con đường sáng tác thơ của của bà, mời bạn đọc hãy cùng với Nhà văn TP.HCM tham khảo ngay bài viết dưới đây nhé!

    Tiểu sử tác giả Hồ Xuân Hương

    Hồ Xuân Hương (1772 – 1822), tên thật là Hồ Phi Mai còn có ý nghĩa là hoa mai bay trên hồ. Quê quán tại làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.

    Năm 13 tuổi, cha của Hồ Xuân Hương mất, sau đó bà phải đi theo mẹ về làng Thọ Xương, gần kinh đô Thăng Long sinh sống và học tập. Tuy nhiên, vì điều kiện kinh tế quá khó khăn, Hồ Xuân Hương chỉ đi học một thời gian rồi đi làm giúp việc để kiếm sống.

     

    Tiểu sử tác giả Hồ Xuân Hương
    Tiểu sử tác giả Hồ Xuân Hương

    Khi còn nhỏ, Hồ Xuân Hương đã nổi tiếng là người hiếu học, thông minh và có khả năng làm thơ rất hay. Sinh ra và lớn lên trong thời điểm xã hội phong kiến Việt Nam có nhiều biến động tiêu cực, bà đã chứng kiến được những cảnh ngộ người phụ nữ Việt bị chà đạp với tư tưởng “trọng nam khinh nữ” thời bấy giờ. Chính điều đó cũng đã ảnh hưởng ít nhiều đến sự nghiệp sáng tác của bà sau này.

    Hồ Xuân Hương cũng được nhận xét là một nữ sĩ có ngoại hình xinh đẹp, cá tính mạnh mẽ, có mối quan hệ rộng rãi. Tuy nhiên, con đường tình duyên của bà lại gặp khá nhiều trắc trở và bất hạnh. Bà trải qua hai đời chồng và ngang trái là đều mang danh vợ lẽ.

    Người chồng đầu tiên của Hồ Xuân Hương là Tổng Cóc, ông là một người có gia thế giàu có, yêu thơ ca nhưng lại khá ăn chơi và thường có thói quen tiêu xài hoang phí. Người vợ cả của Tổng Cóc rất hay ghen tuông, tìm mọi cách đe dọa và hãm hại để Hồ Xuân Hương buộc phải bỏ nhà ra đi khi đang mang thai, nhằm tránh sự soi mói của bà vợ cả cũng như dân làng.

    Một thời gian sau đó, bà sinh đứa con gái đầu lòng, nhưng không may mắn đứa bé đã mất ngay khi vừa mới chào đời. Rồi bà tiếp tục lấy người chồng thứ hai là ông Phủ Vĩnh Tường và cũng mang kiếp vợ lẽ. Bà sinh cho ông một người con, nhưng chỉ sau hai năm chung sống, người chồng thứ hai của bà cũng đã mất. Từ đó trở đi, bà sống cuộc đời cô độc đến cuối đời.

    * Tham khảo: Theo tài liệu của GS. Hoàng Xuân Hãn và ông Lê Xuân Giáo, Hồ Xuân Hương có tới ba đời chồng chứ không phải hai, đó là Ông Tổng Cóc, Ông Phủ Vĩnh Tường và cuối cùng là quan Tham hiệp trấn Yên Quảng Trần Phúc Hiến.

    Con đường văn chương của Hồ Xuân Hương

    Trong sự nghiệp văn chương, Hồ Xuân Hương được xếp hạng nổi tiếng thứ 1607 trên thế giới, xếp thứ 2 trong danh sách nhà thơ nổi tiếng tại Việt Nam. Bà cũng được mệnh danh là “Bà chúa thơ Nôm”, để lại cho hậu thế nhiều bài thơ độc đáo, bao gồm cả các tác phẩm chữ Hán và chữ Nôm.

     

    Con đường văn chương của Hồ Xuân Hương
    Con đường văn chương của Hồ Xuân Hương

    Theo giới nghiên cứu, hiện đang có khoảng 40 bài thơ Nôm và trên dưới 5 bài thơ Hán tương truyền là của Hồ Xuân Hương. Ngoài ra, nữ thi sĩ còn có tập thơ Lưu hương ký được phát hiện vào năm 1964, bao gồm 24 bài chữ Hán và 26 bài chữ Nôm.

    Các sáng tác của Hồ Xuân Hương vừa thanh vừa tục, chủ yếu xoay quanh thân phận của người phụ nữ Việt. Bà cũng là nhà thơ phụ nữ viết về phụ nữ, với phong cách trào phúng nhưng đậm chất trữ tình và chất văn học dân gian từ đề tài cho đến ngôn ngữ, hình tượng.

    Thơ của Hồ Xuân Hương còn là dòng thơ mang tính đấu tranh mạnh mẽ với chế độ phong kiến lạc hậu thời bấy giờ. Nổi bật nhất trong phong cách sáng tác của bà là sự đồng cảm với những mảnh đời bất hạnh, sự khẳng định vẻ đẹp của người phụ nữ.

    Không những vậy, đọc thơ của Hồ Xuân Hương, người ta còn thấy được cái cách mà bà chế giễu và phê phán những thói hư tật xấu của nhà sư, thầy đồ. Điều đó cho thấy mong muốn và khát khao được thoát khỏi chế độ phong kiến đầy khắc nghiệt.

    Tác phẩm tiêu biểu của tác giả Hồ Xuân Hương

    Tác phẩm tiêu biểu của tác giả Hồ Xuân Hương
    Tác phẩm tiêu biểu của tác giả Hồ Xuân Hương

    Hầu hết các bài thơ của tác giả Hồ Xuân Hương đều được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú đường luật (tám câu bảy chữ) và thể thơ thất ngôn tứ tuyệt (bốn câu bảy chữ). Một số sáng tác thơ nôm tiêu biểu của bà có thể kể đến như:

    • Bà Lang khóc chồng
    • Bạch Đằng giang tạm biệt
    • Bài ca theo điệu xuân đình lan
    • Bánh trôi nước
    • Cảnh làm lẽ
    • Cái quạt giấy 1, 2

    Ngoài ra, Hồ Xuân Hương cũng nổi tiếng với những tác phẩm viết bằng chữ Hán như:

    • Hải ốc trù
    • Nhãn phóng thanh
    • Độ Hoa Phong
    • Trạo ca thanh
    • Thuỷ vân hương

    Dù viết bằng chữ Hán hay chữ Nôm, Hồ Xuân Hương cũng được đánh giá là một nữ thi sĩ có biệt tài trong việc sử dụng điệp khúc, âm điệu, tiết tấu thích hợp với từng ý và từng hoàn cảnh với một thái độ rất tự nhiên, duyên dáng và giàu sức gợi.

    Tác phẩm Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương

    Tác phẩm Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương
    Tác phẩm Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương

    Trong số các sáng tác của Hồ Xuân Hương, bài thơ Bánh trôi nước có thể nói là tác phẩm để đời nhất của bà. Bài thơ tuy chỉ có 4 câu nhưng lại ẩn chứa rất nhiều ý nghĩa sâu sắc.

    “Thân em vừa trắng lại vừa tròn

    Bảy nổi ba chìm với nước non

    Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn

        Mà em vẫn giữ tấm lòng son”.

    Nghĩa tả thực của bài thơ chỉ đơn giản là hình ảnh bánh trôi nước trắng, tròn. Khi luộc chưa chín thì chìm, chín rồi thì nổi. Tuy nhiên, Hồ Xuân Hương chỉ mượn hình ảnh bánh trôi nước để ẩn dụ và ca ngợi vẻ đẹp ngoại hình cũng như tâm hồn của người phụ nữ. Đồng thời, thương cảm sâu sắc cho số phận lênh đênh, chìm nổi của họ trong chế độ phong kiến đầy lạc hậu.

    Nếu như câu thơ đầu miêu tả về màu sắc và hình dáng của chiếc bánh trôi để gợi lên vẻ đẹp của người phụ nữ, thì câu thơ thứ hai lại biểu trưng cho số phận lênh đênh, bấp bênh của họ. Số phận của người phụ nữ tiếp tục được nhấn mạnh ở sự phụ thuộc, không có tiếng nói trong xã hội thông qua câu thơ “Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn”. Câu thơ cuối là sự khẳng định, ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ, dù có thể nào thì họ vẫn giữ tấm lòng thủy chung, trong sáng.

    Thông qua bài thơ, người đọc cũng thấy được rõ những giá trị nhân văn vô cùng sâu sắc, đó là ý thức về một xã hội phong kiến bất công, vùi dập cuộc sống người phụ nữ. Đồng thời, cho thấy thái độ đồng cảm, trân trọng và đề cao vẻ đẹp người phụ nữ của tác giả.

    Trên đây là những thông tin chi tiết về tiểu sử cuộc đời, sự nghiệp văn chương, tác phẩm tiêu biểu và nổi bật của nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương. Hy vọng, bạn đọc đã có được cho mình những kiến thức hữu ích, có giá trị để hiểu hơn về tác giả nổi tiếng bậc nhất trong nền thi ca Việt Nam.

  • Nguyễn Khoa Điềm: Tiểu sử, phong cách sáng tác và những tác phẩm nổi tiếng

    Nguyễn Khoa Điềm: Tiểu sử, phong cách sáng tác và những tác phẩm nổi tiếng

    Nhắc tới thơ ca chống Mỹ, chúng ta không thể không nhắc tới Nguyễn Khoa Điềm – một nhà thơ, một nhà chính trị với các tác phẩm gắn liền với quê hương, đất nước. Ông là một trong những nhà thơ tiêu biểu trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, góp phần làm đồ sộ thêm nền văn học nước nhà. 

    Cùng chúng tôi khám phá tiểu sử, phong cách sáng tác và những tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm trong nội dung dưới đây!

    Tiểu sử nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm

    Nguyễn Khoa Điềm (1943) tên khai sinh là Nguyễn Hải Dương, là một nhà thơ, nhà chính trị Việt Nam.

    Ông sinh tại huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế trong một gia đình có cha là nhà báo. Lúc nhỏ, Nguyễn Khoa Điềm học ở quê; tới năm 1955, ông ra miền Bắc học tập, tốt nghiệp Đại học Sư Phạm Hà Nội năm 1964.

     

    Tiểu sử nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm
    Tiểu sử nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm

    Sau khi hoàn thành chương trình học, Nguyễn Khoa Điềm đã tham gia hoạt động trong phong trào học sinh sinh viên tại Huế, tham gia vào quân đội, viết báo, làm thơ,… tới tận năm 1975.

    Có thời gian, Nguyễn Khoa Điềm bị bắt giam tại nhà lao Thừa Phủ. Đến chiến dịch 1968, ông được giải thoát khỏi nhà tù, tiếp tục trở lại tham gia hoạt động. Đây cũng là thời gian ông bắt đầu sự nghiệp làm thơ của mình.

    Ông đã có một số tập thơ xuất bản thành sách như: Cửa thép (1973), Đất ngoại ô (1973), Mặt đường khát vọng (1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007).

    Ông đã được giữ rất nhiều vị trí quan trọng trong nhà nước và các hội Nhà văn, Nhà Thơ: Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên & Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế.

    Đặc biệt, tới năm 1994, ông được bổ nhiệm vị trí Thứ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin. Năm 1995, ông tiếp tục giữ vị trí Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam khóa V.

    Năm 1996, Nguyễn Khoa Điềm được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội Đại biểu toàn quốc ĐCS Việt Nam lần thứ VIII. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc ĐCS Việt Nam lần thứ IX (năm 2001), ông trở thành Ủy viên Bộ Chính Trị, Bí thư Trung ương, Trưởng ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương.

    Cho tới hiện đại, ông đã nghỉ hưu tại quê hương Thừa Thiên Huế.

    Phong cách sáng tác thơ ca của Nguyễn Khoa Điềm

    Phong cách sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm gắn liền với cuộc chiến chống đế quốc Mỹ, thơ của ông mang đậm màu sắc trữ tình, chân thật và đặc biệt là giàu tính chiêm nghiệm.

     

    Phong cách sáng tác thơ ca của Nguyễn Khoa Điềm
    Phong cách sáng tác thơ ca của Nguyễn Khoa Điềm

    Bản thân ông có cha là nhà báo, được học tập trong môi trường sư phạm, tất cả những điều này đã nuôi dưỡng Nguyễn Khoa Điềm trở thành một người có ý thức trách nhiệm với quê hương đất nước.

    Cuộc kháng chiến chống Mỹ đã dần lùi lại quá khứ nhường chỗ cho sự phát triển của kinh tế xã hội hiện đại. Kho lịch sử Nguyễn Khoa Điềm đã tái hiện lại bằng ngòi bút thơ ca của mình suốt 20 năm.

    Ai đó đã từng nói, có lẽ chưa bao giờ trong lịch sử văn học Việt Nam, thơ ca lại đóng góp những tác phẩm tâm huyết, có sức trường tồn với thời gian như thơ giai đoạn chống Mỹ. Sự phát triển của thơ ca giai đoạn này cũng góp phần động viên, cổ vũ toàn dân tộc đoàn kết đánh giặc, bảo vệ tổ quốc.

    Những tác phẩm của Nguyễn Khoa Điềm

     

    Những tác phẩm của Nguyễn Khoa Điềm
    Những tác phẩm của Nguyễn Khoa Điềm

    Những tác phẩm của Nguyễn Khoa Điềm gắn liền với tình yêu quê hương đất nước, với dân tộc Việt Nam:

    • Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ (1971) là bài thơ được sáng tác khi tác giả đang công tác tại chiến khu miền Tây Thừa Thiên. Tác phẩm khắc họa một hình ảnh thực vô cùng phổ biến tại vùng núi trong những năm kháng chiến. Đó là những em bé ngủ trên lưng mẹ, cùng mẹ sản xuất, cùng mẹ chiến đấu. Qua đó, tác giả cũng muốn nhấn mạnh hoàn cảnh khắc nghiệt của chiến tranh, những đứa trẻ sinh ra đã phải chịu gian khổ, mất mát, thiếu thốn, bị ép phải trưởng thành. Đồng thời, bài thơ cũng ca ngợi những người mẹ vùng cao, dù trong mưa bom bão đạn vẫn bao bọc, che chở cho đứa con của mình nhưng vẫn không quên nhiệm vụ tăng gia sản xuất, phục vụ nước nhà.
    • Bếp lửa rừng (1972) là bức tranh tái hiện lại những gian khổ hy sinh của những người chiến sĩ trong kháng chiến chống Mỹ. Dù phải xa gia đình, chịu bao khó khăn nhưng họ vẫn kiên cường, một lòng hướng về tổ quốc, hướng về gia đình, khao khát có một ngày mai hòa bình, độc lập dân tộc. Đây cũng là nỗi niềm chung của tất cả người dân Việt Nam lúc bấy giờ.
    • Đất nước (1973) là một nguồn cảm hứng lớn thời kỳ kháng chiến chống Mỹ của dân tộc. Qua từng lời thơ bình dị của mình, Nguyễn Khoa Điềm đã bày tỏ niềm yêu mến, sự tào đối với quê hương, đất nước qua nhiều khía cạnh khác nhau: từ thời gian lịch sử, không gian địa lý tới chiều sâu văn hóa và những phong tục của người dân. Qua tác phẩm này, ông cũng muốn khơi dậy trong thế hệ trẻ ý thức trách nhiệm trong cuộc đấu tranh của toàn dân tộc.

    Ngoài ra, Nguyễn Khoa Điềm còn có rất nhiều các tác phẩm thơ ca khác nổi tiếng khác như: Báo động, Cái nền căm hờn, Con chim thời gian, Đất và khát vọng, Ngày vui, Màu xanh lên đường,…

    Nhiều bài thơ của ông vẫn giữ được giá trị đến tận bây giờ, được đưa vào sách giáo khoa, là bài học cho thế hệ học sinh noi theo.

    Nhận định về nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm

    Nguyễn Khoa Điềm đã từng nói “Điều may mắn với tôi là được sống trong những năm tháng hào hùng của dân tộc để hiểu nước, hiểu người và hiểu cả mình hơn”.

     

    Nhận định về nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm
    Nhận định về nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm

    Chính bối cảnh lúc bấy giờ đã tôi luyện cho ông trở thành người có trách nhiệm với đất nước, có ý thức phải gìn giữ non sông, thêm yêu lịch sử, yêu sự sống. Chẳng phải vì thế mà đã có người đã khẳng định “Đọc qua thơ ông, dù ngàn năm còn tượng trăng trong gió mát”. Các tác phẩm ông để lại vẫn còn giữ nguyên những giá trị, sự trường tồn với thời gian, dù ở thời điểm nào cũng không hề bị mai một đi giá trị cốt lõi “yêu đất nước”.

    Hy vọng những chia sẻ của Nhà văn TP.HCM đã giúp bạn có thêm những thông tin hữu ích về nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Mong rằng những tư liệu này sẽ phục vụ tốt cho bạn trong  học tập hàng ngày!

  • Nhà thơ Thế Lữ: Tiểu sử cuộc đời & Sự nghiệp sáng tác

    Nhà thơ Thế Lữ: Tiểu sử cuộc đời & Sự nghiệp sáng tác

    Thế Lữ là nhà thơ đi đầu trong phong trào thơ mới tại Việt Nam. Ông được độc giả biết đến nhiều nhất thông qua bài thơ Nhớ rừng. Đồng thời ông cũng là tác giả của rất nhiều tác phẩm thơ ca, truyện ngắn, kịch,… Để hiểu hơn về tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông, mời bạn đọc hãy cùng Nhà văn TP.HCM tham khảo ngay bài viết dưới đây nhé!

    Tiểu sử nhà thơ Thế Lữ

    Thế Lữ (10/6/1907 – 3/6/1989), tên khai sinh là Nguyễn Đình Lễ, sau đó được đổi thành Nguyễn Thứ Lễ. Sau khi người anh trai của ông qua đời, cha mẹ đổi lại tên cho ông là Nguyễn Đình Lễ.  Bút danh Thế Lữ còn mang ý nghĩa “người khác đi qua trần thế” để phù hợp với quan niệm sống của ông thời bấy giờ. Ngoài ra, Thứ Lễ còn có một bút danh khác là Lê Ta để viết báo.

    Thế Lữ là một nghệ sĩ rất đa tài, ông hoạt động ở nhiều lĩnh vực như làm thơ, viết báo, viết văn, dịch thuật, phê bình và sân khấu. Tuy nhiên, từ trước đến nay ông vẫn được nhắc đến nhiều nhất với vai trò là một nhà thơ.

    Tiểu sử nhà thơ Thế Lữ
    Tiểu sử nhà thơ Thế Lữ

    Thế Lữ nổi danh trên nền văn học Việt Nam từ những năm 1930, với những tác phẩm thơ mới và văn xuôi tiêu biểu như bài thơ Nhớ rừng hay tập truyện Vàng và máu (1934). Cũng từ năm 1934, ông đã trở thành thành viên của nhóm Tự lực văn đoàn, ông tham gia vào hầu hết các hoạt động sáng tác văn chương trong thời gian. Đồng thời, cũng đảm nhiệm vai trò là một nhà báo, nhà phê bình và biên tập viên của tờ báo Phong hóa và Ngày nay.

    Đến năm 1937, Thế Lữ chuyển hướng sang biểu diễn kịch nói và trở thành diễn viên, đạo diễn, biên kịch. Sau cách mạng tháng 8, Thế Lữ lên Việt Bắc tham gia kháng chiến và được bầu làm Ủy viên thường vụ Ban chấp hành Hội Văn nghệ Việt Nam, kiểm trưởng đoàn sân khấu Việt Nam.

    Năm 1955, Thế Lữ giữ vai trò Trưởng ban Nghiên cứu Nghệ thuật Sân khấu Việt Nam, chỉ đạo nghệ thuật Đoàn Ca múa Nhân dân Trung ương đi biểu diễn tại các nước như Liên Xô, Ba Lan, Trung Quốc.

    Năm 1957, ông trở thành Chủ tịch đầu tiên của Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam. Đồng thời cũng là hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam và là Phó chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam khóa II.

    Năm 1962, tại Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần III, Thế Lữ tiếp tục giữ vai trò Ủy viên thường vụ Ban chấp hành. Và ông cũng là Đại biểu Quốc hội khóa II (1960 – 1964).

    Thế Lữ nghỉ hưu năm 1977, đến năm 1979, ông chuyển vào Thành phố Hồ Chí Minh sinh sống. Năm 1984, ông được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân đợt I và qua đời vào ngày 3/6/1989 tại Thành phố Hồ Chí Minh.

    Phong cách sáng tác của Thế Lữ trong phong trào thơ mới

    Có thể nói, Thế Lữ là một trong những người khai sáng ra phong trào thơ mới tại Việt Nam. Đọc thơ của ông, độc giả cảm nhận rõ được phong cách sáng tác vô cùng dồi dào, đầy chất lãng mạn mà cũng ẩn chứa những ý nghĩa vô cùng sâu sắc.

    Bên cạnh đó, các tác phẩm thơ của ông đã thoát ra được khuôn phép của thế hệ phong kiến, giải phóng tâm tư của thế hệ mới, đồng thời khẳng định bản lĩnh của con người trước xã hội. Không những vậy, ông cũng là người có đóng góp to lớn trong việc hiện đại hóa các vần thơ trong nền văn học Việt Nam.

    Thế Lữ cũng là một trong những người tiên phong trong việc đưa kịch đến gần hơn với công chúng Việt Nam. Ông là người duy nhất phát triển kịch nói từ trình độ nghiệp dư đến trình độ chuyên nghiệp và trở thành người có sức ảnh hưởng của nền sân khấu dân tộc.

    Những tác phẩm thơ tiêu biểu của Thế Lữ

    Một trong số những tác phẩm làm nên tên tuổi của nhà thơ Thế Lữ, chắc chắn phải nhắc đến bài thơ Nhớ rừng. Tác phẩm được ông sáng tác vào năm 1934 và được in trong tập “Mấy vần thơ”. Trong bài thơ ấy, tác giả đã mượn hình ảnh chú hổ trong vườn bách thú để bày tỏ nỗi căm hận, uất ức của tầng lớp thanh niên tri thức yêu nước thời bấy giờ, đó là những con người bị giam cầm nhưng khao khát sự tự do. Qua đó, góp phần thức tỉnh lòng yêu nước của mỗi người con Việt Nam.

    “Mấy vấn thơ” cũng được xem là tập thơ tiêu biểu và xuất sắc của nhà thơ Thế Lữ, tập thơ này đã được Hoài Thanh và Hoài Chân đưa vào cuốn sách tuyển thơ “Thi nhân Việt Nam”. Các tác phẩm trong tập “Mấy vần thơ” gồm có: Nhớ rừng, Vẻ đẹp thoáng qua, Bên sông đưa khách, Tiếng trúc tuyệt vời, Tiếng sáo Thiên Thai, Cây đàn muôn điệu, Giây phút chạnh lòng.

    Về đề tài truyện, Thế Lữ là tác giả của 40 truyện, trong đó có 6 truyện vừa và còn lại là truyện ngắn. Các tác phẩm truyện của ông, thường hướng tới 3 chủ đề chính là truyện kinh dị (Vàng và máu, Bên đường Thiên Lôi,…); truyện trinh thám (Lê Phong và Mai Hương, Gói thuốc lá, Tay đại bợm, Đòn hẹn,…) và truyện lãng mạn (Gió trăng ngàn, Trại Bồ Tùng Linh,…).

    Trong lĩnh vực sân khấu, khi làm việc dưới vai trò là đạo diễn và đồng đạo diễn, ông đã dàn dựng gần 50 vở diễn. Đồng thời đảm nhiệm khoảng 26 vai diễn khi làm diễn viên. Ông cũng là tác giả của hơn 20 kịch bản kịch nói và 2 vở kịch thơ.

    Nhìn chung, sự nghiệp sáng tác của Thế Lữ bao gồm 3 thể loại chính là thơ ca, truyện ngắn và kịch.

    Những tác phẩm thơ tiêu biểu của Thế Lữ
    Những tác phẩm thơ tiêu biểu của Thế Lữ

    Các tác phẩm thơ ca tiêu biểu:

    • Mấy vần thơ (1935)
    • Mấy vần thơ, tập mới (1941)
    • Nhớ rừng

    Các tác phẩm truyện ngắn tiêu biểu:

    • Vàng và máu (1934)
    • Bên đường thiên lôi (1936)
    • Lê Phong phóng viên (1937)
    • Mai Hương và Lê Phong (1937)
    • Đòn hẹn (1937)
    • Gói thuốc lá (1940)
    • Gió trăng ngàn (1941)
    • Trại Bồ Tùng Linh (1941)
    • Thoa (truyện ngắn, 1942)
    • Truyện tình của anh Mai (truyện vừa, 1953)
    • Tay đại bợm (truyện ngắn, 1953)

    Các tác phẩm kịch tiêu biểu:

    • Dương Quý Phi (1942), với hai vở kịch: Trầm hương đình, Mã Ngôi Pha
    • Người mù (1946)
    • Cụ đạo sư ông (1946)
    • Đoàn biệt động (1947)
    • Đề Thám (1948)
    • Đợi chờ (1949)
    • Tin chiến thắng Nghĩa Lộ (1952)

    Nhận định về nhà thơ Thế Lữ

    “…Phan Khôi, Lưu Trọng Lư chỉ là những người làm cho người ta chú ý đến thơ mới mà thôi, còn Thế Lữ mới chính là người làm cho người ta tin cậy ở tương lai thơ mới. Thơ ông không phải chỉ mới ở lời mà còn mới cả ở ý nữa.” – Vũ Ngọc Phan.

    “Độ ấy Thơ Mới vừa ra đời, Thế Lữ như vầng sao đột hiện ánh sáng chói khắp cả trời thơ Việt Nam. Thơ Thế Lữ về thể cách mới không chút rụt rè, mới từ số câu, số chữ, cách bỏ vần, cho đến tiết tấu âm thanh.” – Hoài Thanh, Hoài Chân.

    “Đọc đôi bài, nhất là bài Nhớ rừng, ta tưởng chừng thấy những chữ bị xô đẩy, bị dằn vặt bởi một sức mạnh phi thường. Thế Lữ như một viên tướng điều khiển đội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh không thể cưỡng lại được.” – Hoài Thanh.

    “Thế Lữ không bàn về thơ mới, không bênh vực thơ mới, không bút chiến, không diễn thuyết, Thế Lữ chỉ lặng lẽ, chỉ điềm nhiên bước những bước vững vàng, mà trong khoảnh khắc cả hàng ngũ thơ xưa phải tan vỡ.” – Hoài Thanh.

    “Thơ Thế Lữ giàu chất lãng mạn, trữ tình. Hình ảnh thơ đẹp, giọng điệu thơ mềm mại, trau chuốt. Tuy nhiên, cảm hứng thơ ít phát triển, hình tượng thơ có ít biển hóa và trong một số trường hợp rơi vào đơn điệu.” – Hà Minh Đức.

    Hy vọng, với những thông tin về tiểu sử cuộc đời, phong cách sáng tác và tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Thế Lữ trên đây, đã giúp bạn có thêm những kiến thức quan trọng và cái nhìn rõ nét, sâu sắc hơn về tác giả đi đầu trong phong trào thơ mới của Việt Nam.